THỜI GIAN RỖI
Sao mà đời lắm thứ phải quan tâm
Không còn thời gian để đứng và nhìn.
Không thời gian để đứng dưới lá cành
Như dê cừu – chúng chỉ đứng nhìn quanh.
Không thời gian khi ta đi qua rừng
Nhìn chú sóc giấu đồ ăn trong cỏ.
Không thời gian để ban ngày nhìn rõ
Dải ngân hà như là giữa trời đêm.
Không thời gian để nhìn xuống chân em
Bước trên đường như người đang khiêu vũ.
Không thời gian đợi nụ cười rạng rỡ
Âu yếm ngọt ngào nở trên môi em.
Đời thật khổ, quá nhiều thứ quan tâm
Không có thời gian để đứng mà nhìn.
Leisure
WHAT is this life if, full of care,
We have no time to stand and stare?—
No time to stand beneath the boughs,
And stare as long as sheep and cows:
No time to see, when woods we pass,
Where squirrels hide their nuts in grass:
No time to see, in broad daylight,
Streams full of stars, like skies at night:
No time to turn at Beauty's glance,
And watch her feet, how they can dance:
No time to wait till her mouth can
Enrich that smile her eyes began?
A poor life this if, full of care,
We have no time to stand and stare.
Sao mà đời lắm thứ phải quan tâm
Không còn thời gian để đứng và nhìn.
Không thời gian để đứng dưới lá cành
Như dê cừu – chúng chỉ đứng nhìn quanh.
Không thời gian khi ta đi qua rừng
Nhìn chú sóc giấu đồ ăn trong cỏ.
Không thời gian để ban ngày nhìn rõ
Dải ngân hà như là giữa trời đêm.
Không thời gian để nhìn xuống chân em
Bước trên đường như người đang khiêu vũ.
Không thời gian đợi nụ cười rạng rỡ
Âu yếm ngọt ngào nở trên môi em.
Đời thật khổ, quá nhiều thứ quan tâm
Không có thời gian để đứng mà nhìn.
Leisure
WHAT is this life if, full of care,
We have no time to stand and stare?—
No time to stand beneath the boughs,
And stare as long as sheep and cows:
No time to see, when woods we pass,
Where squirrels hide their nuts in grass:
No time to see, in broad daylight,
Streams full of stars, like skies at night:
No time to turn at Beauty's glance,
And watch her feet, how they can dance:
No time to wait till her mouth can
Enrich that smile her eyes began?
A poor life this if, full of care,
We have no time to stand and stare.
NGƯỜI NGỦ
Hôm ấy tôi đi bộ xuống bờ sông
Trời ẩm ướt, tối đen và tĩnh lặng
Những chú gà hãy còn chưa gáy sáng
Tiếng chó sủa hãy còn chưa vang lên
Và khi đó chưa đến giờ thứ năm
Mà đồng hồ Westminster sẽ gióng.
Hôm ấy tôi đi bộ xuống bờ sông
Trong không khí ẩm ướt và giá lạnh
Thấy cả trăm phụ nữ và đàn ông
Những kẻ rách rưới, không có việc làm
Họ ngủ ở đây, bên nhau túm tụm
Thấy cảnh ấy, tôi xót xa nghĩ rằng
Những kẻ này chỉ có đường chết sớm.
Ngay lúc đấy, một chiếc xe sáng đèn
Đang từ từ ghé xuống bên bờ sông
Tôi nhìn vào bên trong xe và thấy
Mệt mỏi, bơ phờ – những người đàn ông
Mặt mày cau có và đang tranh thủ
Ngủ một giấc ngắn ngủi trước khi làm.
Mười chiếc xe tiếp đó ghé bờ sông
Như mười cỗ quan tài trong bóng đêm
Trong mỗi xe có hai mươi xác sống
Những xác sẽ hồi sinh làm việc nặng
Thấy cảnh ấy, tôi xót xa nghĩ rằng
Những kẻ này chỉ có đường chết sớm.
The Sleepers
As I walked down the waterside
This silent morning, wet and dark;
Before the cocks in farmyards crowed,
Before the dogs began to bark;
Before the hour of five was struck
By old Westminster's mighty clock:
As I walked down the waterside
This morning, in the cold damp air,
I saw a hundred women and men
Huddled in rags and sleeping there:
These people have no work, thought I,
And long before their time they die.
That moment, on the waterside,
A lighted car came at a bound;
I looked inside, and saw a score
Of pale and weary men that frowned;
Each man sat in a huddled heap,
Carried to work while fast asleep.
Ten cars rushed down the waterside
Like lighted coffins in the dark;
With twenty dead men in each car,
That must be brought alive by work:
These people work too hard, thought I,
And long before their time they die.
Trời ẩm ướt, tối đen và tĩnh lặng
Những chú gà hãy còn chưa gáy sáng
Tiếng chó sủa hãy còn chưa vang lên
Và khi đó chưa đến giờ thứ năm
Mà đồng hồ Westminster sẽ gióng.
Hôm ấy tôi đi bộ xuống bờ sông
Trong không khí ẩm ướt và giá lạnh
Thấy cả trăm phụ nữ và đàn ông
Những kẻ rách rưới, không có việc làm
Họ ngủ ở đây, bên nhau túm tụm
Thấy cảnh ấy, tôi xót xa nghĩ rằng
Những kẻ này chỉ có đường chết sớm.
Ngay lúc đấy, một chiếc xe sáng đèn
Đang từ từ ghé xuống bên bờ sông
Tôi nhìn vào bên trong xe và thấy
Mệt mỏi, bơ phờ – những người đàn ông
Mặt mày cau có và đang tranh thủ
Ngủ một giấc ngắn ngủi trước khi làm.
Mười chiếc xe tiếp đó ghé bờ sông
Như mười cỗ quan tài trong bóng đêm
Trong mỗi xe có hai mươi xác sống
Những xác sẽ hồi sinh làm việc nặng
Thấy cảnh ấy, tôi xót xa nghĩ rằng
Những kẻ này chỉ có đường chết sớm.
The Sleepers
As I walked down the waterside
This silent morning, wet and dark;
Before the cocks in farmyards crowed,
Before the dogs began to bark;
Before the hour of five was struck
By old Westminster's mighty clock:
As I walked down the waterside
This morning, in the cold damp air,
I saw a hundred women and men
Huddled in rags and sleeping there:
These people have no work, thought I,
And long before their time they die.
That moment, on the waterside,
A lighted car came at a bound;
I looked inside, and saw a score
Of pale and weary men that frowned;
Each man sat in a huddled heap,
Carried to work while fast asleep.
Ten cars rushed down the waterside
Like lighted coffins in the dark;
With twenty dead men in each car,
That must be brought alive by work:
These people work too hard, thought I,
And long before their time they die.
TÔI LÀ NHÀ THƠ DAVIES, WILLIAM
Tôi là nhà thơ Davies, William
Không hề đỏ mặt, không hề luống cuống
Tôi là người thích sống để mà ăn
Tôi là người thích sống để mà uống.
Đôi môi dày và mặt tôi sưng phồng
Da tôi thô và có màu đen thẫm
Nhưng thơ của tôi lại càng quái đản
Minh chứng rằng hồn tôi có màu đen.
Nhờ ơn trời em đã không lấy anh
Một nhà thơ đầy nghĩ suy tăm tối
Nhưng mà linh hồn của anh tội lỗi
Cả trăm ngàn con quỉ bắt không xong.
I am the poet Davis, William
I am the poet Davis, William
I sin without a blush or blink:
I am a man that lives to eat,
I am a man that lives to drink.
My face is large, my lips are thick,
My skin is coarse and black almost;
But the ugliest feature is my verse,
Which proves my soul is black and lost.
Thank heaven thou didst not marry me,
A poet full of blackest evil;
For how to manage my damned soul
Will puzzle many a flaming devil.
Tôi là nhà thơ Davies, William
Không hề đỏ mặt, không hề luống cuống
Tôi là người thích sống để mà ăn
Tôi là người thích sống để mà uống.
Đôi môi dày và mặt tôi sưng phồng
Da tôi thô và có màu đen thẫm
Nhưng thơ của tôi lại càng quái đản
Minh chứng rằng hồn tôi có màu đen.
Nhờ ơn trời em đã không lấy anh
Một nhà thơ đầy nghĩ suy tăm tối
Nhưng mà linh hồn của anh tội lỗi
Cả trăm ngàn con quỉ bắt không xong.
I am the poet Davis, William
I am the poet Davis, William
I sin without a blush or blink:
I am a man that lives to eat,
I am a man that lives to drink.
My face is large, my lips are thick,
My skin is coarse and black almost;
But the ugliest feature is my verse,
Which proves my soul is black and lost.
Thank heaven thou didst not marry me,
A poet full of blackest evil;
For how to manage my damned soul
Will puzzle many a flaming devil.
TRĂNG
Vẻ đẹp của em ám ảnh cõi lòng
Ôi, trăng thanh, trăng gần và sáng sủa
Vẻ đẹp này biến tôi thành trẻ nhỏ
Đưa bàn tay bé bỏng hướng về trăng:
Trăng ơi trăng, trăng sáng tỏ trong đêm
Hãy để ta đưa trăng vào giường ngủ.
Như bày tỏ với trăng lòng ngưỡng mộ
Tiếng chim họa mi vẫn hót trong đêm
Nhưng hãy để sự lặng im nói hộ
Cho cõi lòng ta yêu dấu, vì rằng
Tiếng họa mi không thể sánh cùng trăng.
The Moon
Thy beauty haunts me heart and soul,
Oh, thou fair Moon, so close and bright;
Thy beauty makes me like the child
That cries aloud to own thy light:
The little child that lifts each arm
To press thee to her bosom warm.
Though there are birds that sing this night
With thy white beams across their throats,
Let my deep silence speak for me
More than for them their sweetest notes:
Who worships thee till music fails,
Is greater than thy nightingales.
hay quá
Trả lờiXóa