Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Tây Ban Nha. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Tây Ban Nha. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Thơ tình Vicente Aleixandre


SỰ THỐNG NHẤT TRONG EM

Hạnh phúc tuôn chảy xuống tay anh
trong gương mặt của em cuộc đời đầy ắp
nơi bay liệng những con chim không thể nào bắt được
bay về nơi không một thứ gì quên.

Thân thể của người yêu, hồng ngọc, kim cương
tia nắng mặt trời trong vòng tay ôm ấp
bay vào trong những lời làm phép thuật
những lời bùa phép của răng.

Bởi vì anh muốn chết nên anh lao vào em
bởi vì anh muốn được hồi sinh trong lửa
vì không khí anh không cần, anh không biết thở
chỉ đám cháy lửa bừng
trong vực đốt môi anh.

Em đừng lấy tay che mặt
đừng đốt đam mê của cuộc đời mình
hãy cho anh nhìn vào nơi dịu dàng, sâu thẳm nhất
nơi đó, khi chết rồi anh muôn thuở hồi sinh.

Tình yêu hay là chết, nhưng khi yêu anh muốn
anh muốn chết, muốn trở thành máu thịt của em
thành tầng lò thu hẹp trong thân thể ấm nồng
cuồn cuộn dưới da, ở bên rìa cuộc sống.

Nụ hôn trên bờ môi em như kéo dài, đau đớn
như gương nước biển sôi lên
như đôi cánh vẫy vùng
những ngón tay trên làn da ve vuốt
và ánh sáng trên mái tóc dương dương tự đắc
ánh sáng hay là con dao trên cổ của anh
con dao đã không thể nào chia cắt
sự thống nhất của thế giới chúng mình.
1934

Unidad en ella

Cuerpo feliz que fluye entre mis manos,
rostro amado donde contemplo el mundo,
donde graciosos pájaros se copian fugitivos,
volando a la región donde nada se olvida.

Tu forma externa, diamante o rubí duro,
brillo de un sol que entre mis manos deslumbra,
cráter que me convoca con su música íntima, con esa
indescifrable llamada de tus dientes.

Muero porque me arrojo, porque quiero morir,
porque quiero vivir en el fuego, porque este aire de fuera
no es mío, sino el caliente aliento
que si me acerco quema y dora mis labios desde un fondo.

Deja, deja que mire, teñido del amor,
enrojecido el rostro por tu purpúrea vida,
deja que mire el hondo clamor de tus entrañas
donde muero y renuncio a vivir para siempre.

Quiero amor o la muerte, quiero morir del todo,
quiero ser tú, tu sangre, esa lava rugiente
que regando encerrada bellos miembros extremos
siente así los hermosos límites de la vida.

Este beso en tus labios como una lenta espina,
como un mar que voló hecho un espejo,
como el brillo de un ala,
es todavía unas manos, un repasar de tu crujiente pelo,
un crepitar de la luz vengadora,
luz o espada mortal que sobre mi cuello amenaza,
pero que nunca podrá destruir la unidad de este mundo.


GIẤC MƠ

Có những giây phút cô đơn
Khi con tim lặng im, bỗng nhiên hiểu rằng không yêu nữa.
Lấy sức đứng dậy: nhìn buổi sáng tối tăm.
Còn trên giường em, có ai đấy đang say sưa ngủ.
Có thể là em… nhưng mà không: em thơ thẩn trong phòng
Buồn bã, lặng im. Mưa rơi ngoài cửa sổ.
Bình minh sương mờ. Đến đó đã cô đơn!
Em ngó nhìn. Quần áo treo trong phòng
Bầu trời nặng nề, nước rơi, và căn phòng nhỏ
Giữa bình minh xám ngắt ngoài cửa sổ.

Em ngồi im, cúi đầu xuống bàn tay
Tay chống lên bàn. Ghế không kêu cót két.
Chỉ nghe ra đều đều hơi thở của ai
Của ai đó rất dịu dàng, xinh đẹp
Quên trên giường giấc mộng về em, tình yêu đã chết
Còn em – chỉ là giấc mộng của người.
1954

El sueño

Hay momentos de soledad en que el corazón reconoce, atónito, que no ama.
Acabamos de incorporarnos, cansados: el día oscuro.
Alguien duerme, inocente, todavía sobre ese lecho.
Pero quizá nosotros dormimos...        
Ah, no: nos movemos.
Y estamos tristes, callados. La lluvia, allí insiste.
Mañana de bruma lenta, impiadosa. ¡Cuán solos!
Miramos por los cristales. Las ropas, caídas;
el aire, pesado; el agua, sonando. Y el cuarto,
helado en este duro invierno que, fuera, es distinto.
    
Así te quedas callado, tu rostro en tu palma.
Tu codo sobre la mesa. La silla, en silencio.
Y sólo suena el pausado respiro de alguien,
de aquella que allí, serena, bellísima, duerme
y sueña que no la quieres, y tú eres su sueño.


NGÀY NỬA ĐÊM

Tuổi trẻ của ta, ngươi từng là nữ hoàng
Quả thật, không lâu. Từng yêu phương Bắc
Hoa hồng từ trường. Hoa của gió. Bước ngoặt
Ô, giữa ngày yêu thương.

Yêu vực thẳm. Ngọn gió diều hâu. Lông hồng
Yêu nửa đêm. Những ngôi sao trong vực.

Ngọn lửa sâu của tinh cầu xanh biếc
Ngôi sao giữa đại dương. Con cá nói trên trời
Ngươi giẫm lên những chòm sao, yêu bầu trời
Khi ngủ trong mây, khi ngủ say trong vực
Đổ xuống như thác, với bọt nước mỉm cười.

Yêu sự hài hòa trong sự hỗn mang
Khi bay lên trời, khi lao xuống vực
Ô, sự vẹn toàn không chia cách
Ngày, trong tình yêu, cứ ngỡ là đêm!
1968

Canción del día noche

Mi juventud fue reina.
Por un día siquiera. Se enamoró de un Norte.
Brújula de la Rosa. De los vientos. Girando.
Se enamoró de un día.

Se fue, reina en las aguas. Azor del aire.Pluma.
Se enamoró de noche. Bajo la mar, las luces.

Todas las hondas luces de luceros hondísimos.
En el abismo estrellas. Como los peces altos.
Se enamoró del cielo, donde pisaba luces.
Y reposó en los vientos, mientras durmió en las olas.

Mientras cayó en cascada, y sonrió,en espumas.
Se enamoró de un orden. Y subvertió sus gradas.
Y si ascendió al abismo, se despeñó a los cielos.
Ay, unidad del día en que, en amor, fue noche.


NHÀ THƠ HỒI TƯỞNG CUỘC ĐỜI MÌNH

Chết, ngủ. Ngủ, có thể chỉ là mơ?
Hamlet.

Cả đời anh thấy những giấc mơ
Còn ngủ – là không sống. Cuộc đời cho thiên hạ
Sống – là không thở bằng những lời buồn bã
Những lời vẫn sống quanh ta.
Sống trong lời? Nhưng lời không muôn thuở
Tiếng động ngọt ngào nhưng sẽ mất đi
Như đêm trăng này. Như bình minh xa
Như ngày gom những tia nắng cuối
Đập vào mắt ta.
Hãy cứ để ngày hôn em khi khép bờ mi lại
Em hãy ngủ.
Đêm rất dài, nhưng đêm đã đi qua.
1972

El poeta se acuerda de su vida

To die, to sleep; To sleep: perchance to dream?
Hamlet.

Perdonadme: he dormido.
Y dormir no es vivir. Paz a los hombres.
Vivir no es suspirar o presentir palabras que aún nos vivan.
¿Vivir en ellas? Las palabras mueren.
Bellas son al sonar, mas nunca duran.
Así esta noche clara. Ayer cuando la aurora
o cuando el día cumplido estira el rayo
final, ya en tu rostro acaso.
Con tu pincel de luz cierra tus ojos.
Duerme.
La noche es larga,
pero ya ha pasado.


TÔI VIẾT ĐỂ CHO AI?

Tôi viết để cho ai? Đôi khi một nhà báo, phóng viên
hoặc một người nào đấy vì tò mò đã hỏi tôi như vậy.

Dĩ nhiên là tôi không phải viết cho ông chủ
với quần áo bảnh bao, với mày râu giận dữ
và những ngón tay chỉ trỏ giữa sóng nhạc buồn. 

Tôi cũng coi khinh những cỗ xe sang trọng, đắt tiền
(mà bên trong là quí bà đeo kính, mặt lạnh như băng
và thái độ khinh khỉnh, coi người như cỏ rác).

Tôi viết, có lẽ, cho những người mà thơ tôi không đọc.
Chẳng hạn như người phụ nữ chạy trên phố vội vàng
tựa như sợ mình sẽ chậm để mở cửa cho ánh bình minh. 

Hoặc viết cho ông cụ già đang ngồi chơi trên ghế đá
mà không hề để ý rằng ánh mặt trời buổi hoàng hôn
đang âu yếm ve vãn ông bằng tia sáng của mình. 

Tôi viết cho tất cả những người không phải là bạn đọc
không quan tâm, nhưng họ vẫn cần tôi
mặc dù tôi là ai họ không cần biết.

Tôi viết cho cô gái khi đi trên đường đã đưa mắt nhìn tôi
bởi chúng tôi là những người đồng hành giữa cuộc đời này. 

Tôi viết cho bà cụ già đang ngồi bên ngưỡng cửa
người đã sinh ra bao cuộc đời, bàn tay đã run run.

Tôi viết cho những kẻ đang yêu, những kẻ qua đường
những người mà trong đôi mắt luôn có một nỗi buồn
và cho những người thậm chí không thèm nhìn ai hết
tôi viết cho người đột ngột ngã lăn đùng ra chết
vì ông đã gọi chúng ta mà ta chẳng nghe thấy lời ông. 

Tôi viết cho tất cả. Nhưng trước hết, xin nhắc lại rằng –
tôi viết cho những người mà thơ tôi không đọc.
tôi viết cho từng người riêng lẻ, cho cả đám đông
cho những bờ môi, cho những đôi tai, cho những trái tim
mà có thể không nghe tôi nhưng lời của tôi thì nghe được.

¿Para quién escribo?

¿Para quién escribo?, me preguntaba el cronista, el periodista
o simplemente el curioso.

No escribo para el señor de la estirada chaqueta, ni para su bigote
enfadado, ni siquiera para su alzado índice
admonitorio entre las tristes ondas de música.

Tampoco para el carruaje, ni para su ocultada señora
(entre vidrios, como un rayo frío, el brillo de los
impertinentes).

Escribo acaso para los que no me leen. Esa mujer que
corre por la calle como si fuera a abrir las puertas
a la aurora.

O ese viejo que se aduerme en el banco de esa plaza
chiquita, mientras el sol poniente con amor le toma,
le rodea y le deslíe suavemente en sus luces.

Para todos los que no me leen, los que no se cuidan de
mí, pero de mí se cuidan (aunque me ignoren).

Esa niña que al pasar me mira, compañera de mi
ventura, viviendo en el mundo.

Y esa vieja que sentada a su puerta ha visto vida,
paridora de muchas vidas, y manos cansadas.

Escribo para el enamorado; para el que pasó con su
angustia en los ojos; para el que le oyó; para el que
al pasar no miró; para el que finalmente cayó cuando
preguntó y no le oyeron.

Para todos escribo. Para los que no me leen sobre todo
escribo. Uno a uno, y la muchedumbre. Y para los
pechos y para las bocas y para los oídos donde, sin
oírme, está mi palabra.


Thơ tình Rafael Alberti


NGƯỜI BỊ THƯƠNG

– Hãy tặng anh chiếc khăn nào, em gái
Để anh đem buộc vết thương…

– Em biết chọn cho anh khăn nào vậy
Màu nghệ tây hay màu hồng?

– Màu nào cũng được. Ngực anh máu đỏ.
Máu thành tia đang chảy xuống tay anh.
Nhưng con tim của mình, em hãy nhớ
Đem thêu vào từng góc của trái tim.

El herido

—Dame, tu pañuelo, hermana,
que vengo muy mal herido.

—Dime qué pañuelo quieres,
si el rosa o color de olivo.

—Quiero un pañuelo bordado,
que tenga en sus cuatro picos
tu corazón dibujado.

Sông Tiber (Tivere) ở Roma

KHI TÔI RỜI LA MÃ

Khi tôi rời La Mã
Ai còn nhớ đến tôi?

Hãy hỏi về điều này
Những chó hoang đi lạc
Những con mèo lắt lay
Và cả đôi giày rách.

Bạn hãy hỏi để biết
Những con quạ ngồi không
Những con mèo đã chết
Và cửa sổ đóng băng.

Bạn hãy hỏi ngọn gió –
Là hàng xóm của tôi
Và hỏi những nhà cửa
Không hề có trên đời

Hãy hỏi sông Tiber
Đang viết rất vất vả
Những bút danh của tôi
Dưới mỗi cây cầu đó.

Khi tôi rời La Mã
Hãy hỏi chúng về tôi.

Cuando me vaya de Roma

Cuando me vaya de Roma,
¿quién se acordará de mí?

Pregunten al gato,
pregunten al perro
y al roto zapato.

Al farol perdido,
al caballo muerto
y al balcón herido.

Al viento que pasa,
al portón oscuro
que no tiene casa.

Y al agua corriente
que escribe mi nombre
debajo del puente.

Cuando me vaya de Roma
pregunten a ellos por mí. 


FEDERICO

Federico.
Tôi đi trên phố Pinar
Tìm ngôi nhà anh ở.
Đến nơi tôi gõ cửa.
Nhưng anh chẳng có nhà.

Federico.
Anh cười như mọi người.
Anh tìm ra những lời
Không ai tìm thấy cả.
Tôi đến nơi anh ở.
Mà anh chẳng có nhà.

Federico.
Giờ bên sông Aniene
Cây của anh tươi tốt.
Tôi và ngọn gió hát
Về anh, anh có nghe.

Federico

Federico.
Voy por la calle del Pinar
para verte en la Residencia.
Llamo a la puerta de tu cuarto.
Tú no estás.

Federico.
Tú te reías como nadie.
Decías tú todas tus cosas
como ya nadie las dirá.
Voy a verte a la Residencia.
Tú no estás.

Federico.
Por estos montes del Aniene,
tus olivos trepando van.
Llamo a sus ramas con el aire.
Tú sí estás.
  

ROMA, NGUY HIỂM CHO NGƯỜI ĐI BỘ

Đừng ngắm nhìn di tích ở Roma
Khi bạn đến Roma mà đi bộ
Cần cả trăm đôi mắt mở thật to
Bạn là nô lệ ở trên đường phố.

Đừng ngắm nhìn vẻ đẹp bao kỳ quan
Bao cung điện, mái vòm, đài phun nước
Đang chờ bạn cả hàng ngàn cái chết
Nếu bạn thờ ơ, cái chết rất gần.

Nhìn phải trái nếu bạn muốn qua đường
Đèn xanh đỏ để dừng hay đi tiếp
Dù muốn dù không vẫn phải quan tâm.

Nếu muốn sống – hãy làm chim bồ câu
Nếu muốn chết – đến Roma đi bộ
Hồn bơ vơ trong phố nhỏ u sầu.

Roma, peligro para caminantes

Trata de no mirar sus monumentos,
caminante, si a Roma te encaminas.
Abre cien ojos, clava cien retinas,
esclavo siempre de los pavimentos.

Trata de no mirar tantos portentos,
fuentes, palacios, cúpulas, ruinas,
pues hallarás mil muertes repentinas
-si vienes a mirar-, sin miramientos.

Mira a diestra, a siniestra, al vigilante,
párate al ¡alto!, avanza al ¡adelante!,
marcha en un hilo, el ánimo suspenso.

Si vivir quieres, vuélvete paloma;
si perecer, ven, caminante a Roma,
alma garaje, alma garaje inmenso.


Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018

Thơ tình Juan Ramón Jiménez



TUỔI TRẺ

Chỉ còn lại ngươi và ta
Ta và ngươi trên ban công yên lặng
Ta gọi ngươi là vợ của ta
Trong buổi sáng này ít nắng.

…Cả thiên nhiên trong lười nhác ngọt ngào
Màu sắc mờ, bóng cây tái nhợt
Còn bầu trời xám xịt
Ánh sáng mùa thu mờ đục biết bao.

Ta ép sát môi vào
Và đôi mắt không mở
Còn ngươi kề đôi má
Như ngọc, như châu.

…Lá vàng chất thành đống
Trên những lối đi
Nhưng mùi hương còn thoảng
Mùi hoa hướng nhật quì.

Ta gọi ngươi là vợ của ta
Còn ngươi cúi đầu im lặng
Nhưng từ đôi mắt nóng bỏng
Hai giọt nước mắt tuôn ra.

ADOLESCENCIA

En el balcón, un instante
nos quedamos los dos solos.
Desde la dulce mañana
de aquel día, eramos novios.

— El paisaje soñoliento
dormía sus vagos tonos,
bajo el cielo gris y rosa
del crepúsculo de otoño —.

Le dije que iba a besarla;
bajo, serena, los ojos
y me ofreció sus mejillas,
como quien pierde un tesoro.

— Caían las hojas muertas,
en el jardín silencioso,
y en el aire erraba aun
un perfume de heliotropos —

No se atrevía a mirarme;
le dije que eramos novios,
...y las lagrimas rodaron
de sus ojos melancólicos.


2-NGỌN GIÓ TRONG BUỔI CHIỀU

Le vent de l'autre nuit
a jeté bas l'Amour…
P. Verlaine

Ngọn gió trong buổi chiều thu nhè nhẹ
Cuốn đi những chiếc lá vàng.
Những hàng cây buồn bã đứng trong đêm
Chao ôi, đêm sao mà dài thế!

Ánh trăng vàng lờ đờ, không sức sống
Bơi lững lờ trên những cành đen
Không tiếng khóc, chẳng nụ hôn
Trong ánh sáng của trăng đều chết lặng.

Tôi dịu dàng cùng hàng cây thỏ thẻ:
Đừng khóc thương chi những chiếc lá vàng
Sẽ nẩy lộc đâm chồi khi đến mùa xuân
Trên những cành cây mùa thu này trụi lá.

Nhưng hàng cây đứng lặng im buồn bã
Và tiếc thương cho mất mát của mình…
Xin đừng khóc cho những chiếc lá vàng
Hãy để lá xanh mọc ra thay thế.
_______________
*Trong đêm ngọn gió xô tượng Thần tình yêu xuống đất. 
P. Verlaine.

¡La otra tarde, se ha llevado 

(Le vent de l'autre nuit
a jeté bas l'Amour...
P. Verlaine)

¡La otra tarde, se ha llevado
el viento mas hojas secas!
¡Que pena tendrán los arboles,
esta noche sin estrellas!

He entreabierto mi balcón:
— La luna camina muerta,
sin luz de besos ni lagrimas,
amarilla entre la niebla —.

Y he acariciado los arboles,
con miradas de terneza,
que les van abriendo hojitas
verdeluz de primavera.

¿Es que están soñando, así,
con sus pobres hojas secas?
Yo les digo: «No lloréis;
vendrán con las hojas nuevas».




TÔI TỪNG NÓI VỚI EM

Tôi từng nói với em, có một lần
và em chăm chú nghe tôi, im lặng
rằng tôi rất thích vào mùa xuân
tình yêu mặc áo quần màu trắng.

Đôi mắt xanh thắm ngước lên
ngắm nhìn tôi với niềm hi vọng
chỉ bờ môi còn bé bỏng
ánh lên một nỗi buồn.

Từ dạo ấy, khi đi qua quãng trường
tôi đi trong hoàng hôn tháng Năm yên lặng
còn em, đứng bên cửa ngoái nhìn
rất nghiêm túc, trong áo quần màu trắng.

“Yo dije que me gustaba …”

Yo dije que me gustaba
— ella me estuvo escuchando
que, en primavera, el amor
fuera vestido de blanco.

Alzo sus ojos azules
y se me quedó mirando,
con una triste sonrisa
en los virjinales labios.

Siempre que cruce su calle,
al ponerse el sol de mayo
estaba seria, en su puerta,
toda vestida de blanco.


KHI NGƯỜI PHỤ NỮ Ở CÙNG ANH


Khi người phụ nữ ở cùng anh…
thì âm nhạc, lửa, hoa lá cành
tất cả trong dịu êm, tĩnh lặng.
Còn nếu người phụ nữ không cùng anh
thì tất cả sẽ trở nên điên cuồng
cả âm nhạc, lửa và ánh sáng.

“Cuando la mujer está, …”

Cuando la mujer está,
todo es tranquilo, lo que es
— la llama, la flor, la música
Cuando la mujer se fue
— la luz, la canción, la llama
¡todo! es, loco, la mujer.



TRĂNG CÔ ĐƠN

Màu tím vang lên, và ánh trăng buồn bã
Trải từ phương đông bằng sương đến bình minh
Tiếng chó sủa chốn ngoại ô lặng ngừng
Thời gian biến mất, rồi chìm trong hoang dã.

Ánh trăng rót lên hàng dương nghĩa địa…
Trong nhà thờ xưa, rêu sáng dưới trăng
Nước mắt ánh lên trong mạch nước vội vàng
Mặt đất hoang vu. Và chỉ còn biển cả…

LUNA SOLA

Cesó el clarín agudo, y la luna esta triste.
Grandes nubes arrastran la nueva madrugada.
Ladra un perro alejándose, y todo lo que existe
se hunde en el abismo sin nombre de la nada.

La luna dorara un viejo camposanto...
Habrá un verdín con luna sobre una antigua almena.
En una fuente sola, sera una luna en llanto...
Habrá una mar sin nadie, bajo una luna llena...


CÂY CẦU TÌNH YÊU XƯA

Ta lại đứng bên cây cầu tình yêu xưa
Cây cầu nối hai bờ vách đá
Con tim hãy quên bóng cành bóng lá
Và hãy quên những cuộc hẹn hò.

Giờ với ta dòng nước là bạn gái
Dòng nước đi nhưng chẳng đổi thay
Dòng nước chảy như thời gian trôi vậy
Dẫu ra đi, không từ giã người này.


“A la puente del amor, …”

A la puente del amor,
piedra vieja entre altas rocas
— cita eterna, larde roja —,
vengo con mi corazón:

Mi novia sola es el agua,
que pasa siempre y no engaña,
que pasa siempre y no cambia,
que pasa siempre y no acaba. –
GIẤC MỘNG CỦA EM

Giấc mộng của em – như cây cầu trong đêm vắng
em lang thang trong tĩnh lặng trên cầu.
Còn phía dưới – tiếng rì rào như trong mộng
nhưng có phải tâm hồn và dòng nước kia đâu.

 “El dormir os como un puente …”

El dormir os como un puente
que va del hoy al mañana.
For debajo, como un sueño,
pasa el agua.


EM ĐỪNG VỘI

Em đừng vội, bởi vì rằng tất cả
mọi con đường dẫn em đến với mình.

Em đừng vội, nếu không sẽ muộn màng
nếu không, cái “tôi” của riêng em đó –
đứa bé con, không phút chốc – sinh ra
và em muôn thuở
không đuổi kịp bao giờ!


 “¡No corras, ve despacio, …”

¡No corras, ve despacio,
que adonde tienes que ir es a ti solo!

¡Ve despacio, no corras,
que el niño de tu yo, reciennacido
eterno,
no te puede seguir!


HOA HỒNG

Em đã chết
Nhưng tại sao vẫn sống nỗi buồn
Từ đôi mắt nhìn màu đen như trước?

Chẳng lẽ niềm vui khi chết không thoát được?
Và một điều còn mãi – nỗi đau khổ của ta?

ROSAS

¿Como, si estás ya muerta,
la pena mira así,
viva, en tos ojos todavía negros?

¿Qué es lo que muere, entonces, la alegría?
¿Qué es, entonces, lo eterno, la tristeza?



THU CA 

Sếu bay dưới trời hoàng hôn… Sếu bay đi về đâu?
Dòng sông đầy ắp lá vàng… Sông chảy về đâu?
Tôi đi trên cánh đồng vàng … về đâu chẳng biết
Hỡi mùa thu vàng, chim và hoa, và nước chảy về đâu?

CANCIÓN DE OTOÑO

Por un camino de oro van los mirlos... ¿A donde?
Por un camino de oro van las rosas... ¿A donde?
Por un camino de oro voy... ¿A donde,
otoño? ¿A dónde, pájaros y flores?


HỠI NGƯỜI HỌA SĨ 

Hỡi người họa sĩ, anh đã vẽ tôi
giống hệt tôi và vô cùng sống động
làm tôi tin rằng đấy chính là tôi
còn bây giờ xin anh hãy vẽ tôi
sao cho không hề giống
để tôi tin rằng: hình ảnh – dối gian thôi.

Pintor que me has pintado

Pintor que me has pintado
en este cuadro vago de la vida,
tan bien, que casi
parezco de verdad; ¡ay; pínta-
me nuevamente, y mal, le modo
que parezca mantira!


ĐIỀU GÌ XẢY RA VỚI ÂM NHẠC 

Điều gì xảy ra với âm nhạc
khi im bặt dây đàn
điều gì xảy ra với tia sáng
khi không còn lấp lánh ngọn hải đăng?
Hãy thừa nhận 
hỡi tử thần
Có phải ngươi là bóng đêm và tĩnh lặng?

¿Qué le pasa a una música

¿Qué le pasa a una música,
cuando deja de sonar; qué
a una brisa que deja
de revolar, y qué
a una luz que se apaga?
Muerte, di, ¿y que eres tu sino silencio,
calma y sombra?


ANH SẼ HỒI SINH 

Anh sẽ hồi sinh làm hòn đá trên trần
Và lại yêu em như một người phụ nữ.

Anh sẽ hồi sinh làm cơn gió trên trần
Và lại yêu em như một người phụ nữ.

Anh sẽ hồi sinh làm con sóng trên trần
Và lại yêu em như một người phụ nữ.

Anh sẽ hồi sinh làm ngọn lửa trên trần
Và lại yêu em như một người phụ nữ.

Anh sẽ hồi sinh làm một người đàn ông
Và lại yêu em như một người phụ nữ. 

Renaceré yo

Renaceré yo piedra,
y aún te amaré mujer a ti.

Renaceré yo viento,
y aún te amaré mujer a ti.

Renaceré yo ola,
y aún te amaré mujer a ti.

Renaceré yo fuego,
y aún te amaré mujer a ti.

Renaceré yo hombre,
y aún te amaré mujer a ti.