GỬI ĐỒNG CHÍ TỐ HỮU,
NGƯỜI DỊCH “ĐỢI ANH VỀ”
Tôi biết rằng thơ của tôi đang sống
Ở đây trong bản dịch đẹp của Anh.
Và sẽ sống đến ngày người vợ vẫn
Ngóng trông chồng về từ cuộc chiến tranh.
Một phần tư thế kỷ súng không ngừng!
Những người vợ góa vẫn đi ra mộ
Vẫn chờ đợi, thì thơ tôi còn đó
Còn sống trong bản dịch đẹp của Anh.
Tôi cầu mong ngày ấy đến cho nhanh
Trên con đường đến tự do dằng dặc
Ngày mà thơ, cũng như người, kết thúc
Cuộc hành quân trong bản dịch của Anh.
Hãy để ngày, khi không còn trông ngóng
Người trở về - yên lặng giữa thiên nhiên
Thì thơ tôi sẽ thở phào nhẹ nhõm
Rồi chết trong bản dịch đẹp của Anh.
1969
Товарищу То Хыу,
который перевел "Жди меня..."
Я знаю, здесь мои стихи живут
В прекрасном Вашем переводе.
И будут жить, покуда жены ждут
Тех, кто в походе.
Уж четверть века пушки бьют и бьют!
И вдовы на могилы ходят,
И, ждя живых, мои стихи живут
В прекрасном Вашем переводе.
Скорей бы наступил тот год
На длительном пути к свободе,
Когда стихи, как люди, свой поход
Закончат в Вашем переводе.
Пусть в этот день, когда уже не ждут
С войны людей и – тишина в природе,
Мои стихи, легко вздохнув, умрут
В прекрасном Вашем переводе.
EM TỪNG NÓI VỚI ANH
Em từng nói với anh rằng “yêu anh”
Nhưng đấy là trong đêm, qua hàm răng
Còn sáng ra, lời đắng cay “chịu đựng”
Đôi bờ môi mím lại đến nhọc nhằn.
Anh đã tin đôi bờ môi trong đêm
Tin đôi bàn tay nóng bừng, láu lỉnh
Nhưng anh không tin lời trong đêm vắng
Những lời trong đêm thầm kín, vô hình.
Anh hiểu rằng em muốn được yêu anh
Anh biết em đã không hề nói dối
Chỉ về đêm em thường gian dối vậy
Khi xác thân cai trị lấy linh hồn.
Nhưng trong giờ tỉnh táo buổi bình minh
Khi tâm hồn lại như xưa – mạnh mẽ
Thì giá một lần mà em nói “có”
Với anh trong niềm hy vọng, chờ mong.
Và bỗng chiến tranh, sân ga, ly biệt
Nơi không còn một chỗ để ôm em
Với toa tàu ở nhà ga ngoại thành
Trong toa này anh đi về Brest.
Bỗng nhiên cơn gió về đêm vô vọng
Về hạnh phúc, về gối ấm chăn êm
Không có gì giúp được! – như tiếng vang
Là vị của nụ hôn trên áo lính.
Để lời trong cơn say, trong đêm vắng
Anh không nhầm lẫn với những lời xưa
Em bỗng nói với anh rằng “em yêu”
Bằng đôi bờ môi hầu như tĩnh lặng.
Xưa anh chưa từng thấy em như thế
Trước những lời cay đắng buổi chia ly:
Em yêu anh… và sân ga đêm khuya
Đôi bàn tay lạnh giá vì đau khổ.
1941
Ты говорила мне «люблю»
Ты говорила мне «люблю»,
Но это по ночам, сквозь зубы.
А утром горькое «терплю»
Едва удерживали губы.
Я верил по ночам губам,
Рукам лукавым и горячим,
Но я не верил по ночам
Твоим ночным словам незрячим.
Я знал тебя, ты не лгала,
Ты полюбить меня хотела,
Ты только ночью лгать могла,
Когда душою правит тело.
Но утром, в трезвый час, когда
Душа опять сильна, как прежде,
Ты хоть бы раз сказала «да»
Мне, ожидавшему в надежде.
И вдруг война, отъезд, перрон,
Где и обняться-то нет места,
И дачный клязьминский вагон,
В котором ехать мне до Бреста.
Вдруг вечер без надежд на ночь,
На счастье, на тепло постели.
Как крик: ничем нельзя помочь!—
Вкус поцелуя на шинели.
Чтоб с теми, в темноте, в хмелю,
Не спутал с прежними словами,
Ты вдруг сказала мне «люблю»
Почти спокойными губами.
Такой я раньше не видал
Тебя, до этих слов разлуки:
Люблю, люблю... ночной вокзал,
Холодные от горя руки.
1941
ANH KHÔNG THỂ LÀM THƠ VỀ EM NỮA
Anh không thể làm thơ về em nữa
Không em ngày xưa, chẳng của bây giờ.
Đã rõ ràng, những lời cay đắng thế
Từ lâu rồi không còn đủ cho ta.
Điều tốt đẹp – cám ơn! Anh không tính
Chuyện nhỏ nhen, bởi một thuở sống cùng
Anh chưa đem cho và chưa từng nhận
Dù chắc gì anh còn nợ tiếng thơm.
Điều ác dữ tựa hồ như gánh nặng
Mà bàn tay em đặt xuống vai anh
Là của anh! Anh tự mình xác định
Đời với anh nghiệt ngã chẳng vô tình.
Lời quở trách muộn màng buông ra gió
Đừng sợ gì trò chuyện đến bình minh.
Chỉ đơn giản không còn yêu em nữa
Nên anh không làm thơ nữa về em.
1954
Я не могу писать тебе стихов
Я не могу писать тебе стихов
Ни той, что ты была, ни той, что стала.
И, очевидно, этих горьких слов
Обоим нам давно уж не хватало.
За все добро - спасибо! Не считал
По мелочам, покуда были вместе,
Ни сколько взял его, ни сколько дал,
Хоть вряд ли задолжал тебе по чести.
А все то зло, что на меня, как груз,
Навалено твоей рукою было,
Оно мое! Я сам с ним разберусь,
Мне жизнь недаром шкуру им дубила.
Упреки поздно на ветер бросать,
Не бойся разговоров до рассвета.
Я просто разлюбил тебя. И это
Мне не дает стихов тебе писать.
LINH CẢM TÌNH YÊU
Linh cảm của tình yêu còn kinh hoàng
Hơn cả tình. Tình yêu là trận đánh
Mắt nhìn mắt, bạn gặp gỡ với tình
Không đợi gì, tình yêu cùng với bạn.
Linh cảm của tình yêu – như biển động
Đã hơi hơi đôi bàn tay ướt dầm
Nhưng vẫn hãy còn lặng im, và tiếng
Đàn dương cầm nghe rõ sau bức mành.
Còn trên áp kế hướng về ma quỉ
Tất cả đang rơi, áp lực rơi nhanh
Trong nỗi sợ hãi trước ngày tận thế
Áp vào bến bờ khi đã muộn màng.
Không, tệ hơn. Điều này như chiến hào
Nơi bạn ngồi chờ để xông vào trận
Còn đằng kia, cách nửa dặm vexta
Người cũng chờ để đạn xuyên vào trán…
1945
Предчувствие любви страшнее
Предчувствие любви страшнее
Самой любви. Любовь - как бой,
Глаз на глаз ты сошелся с нею.
Ждать нечего, она с тобой.
Предчувствие любви - как шторм,
Уже чуть-чуть влажнеют руки,
Но тишина еще, и звуки
Рояля слышны из-за штор.
А на барометре к чертям
Все вниз летит, летит давленье,
И в страхе светопреставленья
Уж поздно жаться к берегам.
Нет, хуже. Это как окоп,
Ты, сидя, ждешь свистка в атаку,
А там, за полверсты, там знака
Тот тоже ждет, чтоб пулю в лоб...
MUỐN ĐƯỢC GỌI EM LÀ NGƯỜI VỢ
Anh muốn được gọi em là người vợ
Vì người ta không gọi thế bao giờ
Vì ngôi nhà anh chiến tranh tàn phá
Em đến làm khách lần nữa, chắc gì.
Vì anh từng mong cho em điều ác
Vì hiếm khi em thấy xót thương anh
Vì em đến không cần chi mời mọc
Khi tự mình đêm ấy đến với anh.
Anh muốn được gọi em là người vợ
Không phải để rồi đem nói cùng ai
Cũng chẳng phải vì từ lâu em đã
Cùng anh trong thêu dệt của người đời.
Anh chẳng phải hám danh vì danh tiếng
Hoặc hư vinh nhờ sắc đẹp của em
Anh chỉ cần vẻ dịu dàng bí ẩn
Của tiếng bước chân em đến nhẹ nhàng.
Cái chết làm ngang hàng bao tên tuổi
Như ga tàu, sắc đẹp sẽ qua nhanh
Và người chủ trong những ngày tháng cuối
Sẽ ghen tuông với ảnh của chính mình.
Anh muốn được gọi em là người vợ
Vì những ngày ly biệt có vô vàn
Vì sau này những bàn tay xa lạ
Vuốt mắt cho nhiều người sống cùng anh.
Vì một điều em đã từng chân thật
Không hứa với anh quan trọng một điều
Buổi chia tay của lính trong giờ chót
Em mới lần đầu nói dối – rằng yêu.
Em từng là ai? Của anh hay xa lạ?
Vì thế mà con tim hãy còn xa…
Hãy tha thứ, anh gọi em là vợ
Theo quyền những ai có thể không về.
1941
Мне хочется назвать тебя женой
Мне хочется назвать тебя женой
За то, что так другие не назвали,
Что в старый дом мой, сломанный войной,
Ты снова гостьей явишься едва ли.
За то, что я желал тебе и зла,
За то, что редко ты меня жалела,
За то, что, просьб не ждя моих, пришла
Ко мне в ту ночь, когда сама хотела.
Мне хочется назвать тебя женой
Не для того, чтоб всем сказать об этом,
Не потому, что ты давно со мной,
По всем досужим сплетням и приметам.
Твоей я не тщеславлюсь красотой,
Ни громким именем, что ты носила,
С меня довольно нежной, тайной, той,
Что в дом ко мне неслышно приходила.
Сравнятся в славе смертью имена,
И красота, как станция, минует,
И, постарев, владелица одна
Себя к своим портретам приревнует.
Мне хочется назвать тебя женой
За то, что бесконечны дни разлуки,
Что слишком многим, кто сейчас со мной,
Должны глаза закрыть чужие руки.
За то, что ты правдивою была,
Любить мне не давала обещанья
И в первый раз, что любишь,— солгала
В последний час солдатского прощанья.
Кем стала ты? Моей или чужой?
Отсюда сердцем мне не дотянуться...
Прости, что я зову тебя женой
По праву тех, кто может не вернуться.
HẠNH PHÚC
Ngày còn bé. Người ta từng hỏi anh:
“Cháu muốn gì để thành người hạnh phúc?”
-“Cháu muốn được cưỡi ngựa phóng lên đường
Và cháu muốn được thổi kèn tập hợp”.
Thành chàng trai. Người ta đã hỏi chàng:
“Chàng muốn gì để thành người hạnh phúc?”
-“Cháu muốn mình được sống đến trăm năm
Và muốn được đi cùng trời cuối đất”.
Thành người lính. Và người ta hỏi anh:
“Cậu muốn gì để thành người hạnh phúc?”
-“Tôi biết rằng nếu lựa chọn là cần
Thì tôi chọn hy sinh vì Tổ quốc”.
Anh đã chết. Người ta hỏi vợ anh:
“Chị muốn gì để mình không bất hạnh?”
-“Tôi muốn, nếu cha chẳng thể hồi sinh
Thì con trai muốn điều như cha muốn”.
1943
СЧАСТЬЕ
Мальчиком он был. Его спросили:
"Что ты хочешь, чтобы быть счастливым?"
- "Я хочу поехать на лошадке
И подуть в солдатскую трубу".
Юношей он стал. Его спросили:
"Что ты хочешь, чтобы быть счастливым?"
- "Я хочу весь белый свет объехать
И, не старясь, до ста лет прожить".
Стал солдатом он. Его спросили:
"Что ты хочешь, чтобы быть счастливым?"
- "Я хочу, раз выбирать уж надо,
Умереть, чтоб родину спасти".
Умер он. Его вдову спросили:
"Что ты хочешь, чтоб не быть несчастной?"
- "Я хочу, коль он уж не воскреснет,
Чтоб мой сын хотел того ж, что он".
NẾU CHÚA TRỜI
Nếu Chúa Trời bằng quyền lực của mình
Cho ta đến thiên đường sau khi chết
Tôi biết làm gì với tài sản trần gian
Nếu như Ngài nói rằng: cần chọn lọc?
Tôi không cần nơi thiên đường buồn bã
Một người luôn ngoan ngoãn bước theo mình
Có lẽ tôi mang theo người như thế
Người đã từng sống ở cõi trần gian.
Người nông nổi, dữ dằn, hay châm chọc
Dù chẳng dài lâu, nhưng vẫn của mình!
Người đã từng hành hạ trên mặt đất
Sẽ không cho buồn chán ở thiên đường.
Những người bất trị, hư thân như thế
Chẳng mấy ai mang theo đến thiên đường
Vì những người ngoan đạo nơi đó sẽ
Để mắt nhìn, và để ý coi trông.
Tôi có lẽ mang theo mình khoảng cách
Để giày vò mình trước cảnh chia lìa
Để nhớ về trong phút giây ly biệt
Nỗi đau treo trên cổ của bàn tay.
Tôi có lẽ mang mọi điều nguy hiểm
Để cho người chờ đợi thủy chung hơn
Để đôi mắt em rõ ràng xanh thắm
Đang ở nhà không cho kẻ nhát gan.
Tôi có lẽ mang theo mình người bạn
Để có người cụng chén khi tiệc tùng
Và kẻ thù để phút giây ghê tởm
Sẽ thù hằn theo kiểu của trần gian.
Chẳng tình yêu, buồn chán, chẳng xót thương
Ngay cả họa mi Cuốc-xcơ nổi tiếng
Cả những gì nhỏ mọn nhất cũng không
Không bỏ lại nơi trần gian đã sống.
Cả cái chết, nếu điều này có thể
Tôi cũng không bỏ lại ở trần gian
Tất cả những gì có nơi trần thế
Tôi sẽ mang theo hết đến thiên đường.
Vì thói tư lợi của người trần thế
Chúa sẽ ngạc nhiên mà chửi mắng tôi
Tôi tin chắc rằng rồi đây Ngài sẽ
Lần nữa đuổi tôi về lại cõi đời.
1941
Если бог нас своим могуществом
Если бог нас своим могуществом
После смерти отправит в рай,
Что мне делать с земным имуществом,
Если скажет он: выбирай?
Мне не надо в раю тоскующей,
Чтоб покорно за мною шла,
Я бы взял с собой в рай такую же,
Что на грешной земле жила,-
Злую, ветреную, колючую,
Хоть ненадолго, да мою!
Ту, что нас на земле помучила
И не даст нам скучать в раю.
В рай, наверно, таких отчаянных
Мало кто приведёт с собой,
Будут праведники нечаянно
Там подглядывать за тобой.
Взял бы в рай с собой расстояния,
Чтобы мучиться от разлук,
Чтобы помнить при расставании
Боль сведённых на шее рук.
Взял бы в рай с собой всё опасности,
Чтоб вернее меня ждала,
Чтобы глаз своих синей ясности
Дома трусу не отдала.
Взял бы в рай с собой друга верного,
Чтобы было с кем пировать,
И врага, чтоб в минуту скверную
По-земному с ним враждовать.
Ни любви, ни тоски, ни жалости,
Даже курского соловья,
Никакой, самой малой малости
На земле бы не бросил я.
Даже смерть, если б было мыслимо,
Я б на землю не отпустил,
Всё, что к нам на земле причислено,
В рай с собою бы захватил.
И за эти земные корысти,
Удивлённо меня кляня,
Я уверен, что бог бы вскорости
Вновь на землю столкнул меня.
NẾU CHÚA TRỜI
Nếu Chúa Trời bằng quyền lực của mình
Cho ta đến thiên đường sau khi chết
Tôi biết làm gì với tài sản trần gian
Nếu như Ngài nói rằng: cần chọn lọc?
Tôi không cần nơi thiên đường buồn bã
Một người luôn ngoan ngoãn bước theo mình
Có lẽ tôi mang theo người như thế
Người đã từng sống ở cõi trần gian.
Người nông nổi, dữ dằn, hay châm chọc
Dù chẳng dài lâu, nhưng vẫn của mình!
Người đã từng hành hạ trên mặt đất
Sẽ không cho buồn chán ở thiên đường.
Những người bất trị, hư thân như thế
Chẳng mấy ai mang theo đến thiên đường
Vì những người ngoan đạo nơi đó sẽ
Để mắt nhìn, và để ý coi trông.
Tôi có lẽ mang theo mình khoảng cách
Để giày vò mình trước cảnh chia lìa
Để nhớ về trong phút giây ly biệt
Nỗi đau treo trên cổ của bàn tay.
Tôi có lẽ mang mọi điều nguy hiểm
Để cho người chờ đợi thủy chung hơn
Để đôi mắt em rõ ràng xanh thắm
Đang ở nhà không cho kẻ nhát gan.
Tôi có lẽ mang theo mình người bạn
Để có người cụng chén khi tiệc tùng
Và kẻ thù để phút giây ghê tởm
Sẽ thù hằn theo kiểu của trần gian.
Chẳng tình yêu, buồn chán, chẳng xót thương
Ngay cả họa mi Cuốc-xcơ nổi tiếng
Cả những gì nhỏ mọn nhất cũng không
Không bỏ lại nơi trần gian đã sống.
Cả cái chết, nếu điều này có thể
Tôi cũng không bỏ lại ở trần gian
Tất cả những gì có nơi trần thế
Tôi sẽ mang theo hết đến thiên đường.
Vì thói tư lợi của người trần thế
Chúa sẽ ngạc nhiên mà chửi mắng tôi
Tôi tin chắc rằng rồi đây Ngài sẽ
Lần nữa đuổi tôi về lại cõi đời.
1941
Если бог нас своим могуществом
Если бог нас своим могуществом
После смерти отправит в рай,
Что мне делать с земным имуществом,
Если скажет он: выбирай?
Мне не надо в раю тоскующей,
Чтоб покорно за мною шла,
Я бы взял с собой в рай такую же,
Что на грешной земле жила,-
Злую, ветреную, колючую,
Хоть ненадолго, да мою!
Ту, что нас на земле помучила
И не даст нам скучать в раю.
В рай, наверно, таких отчаянных
Мало кто приведёт с собой,
Будут праведники нечаянно
Там подглядывать за тобой.
Взял бы в рай с собой расстояния,
Чтобы мучиться от разлук,
Чтобы помнить при расставании
Боль сведённых на шее рук.
Взял бы в рай с собой всё опасности,
Чтоб вернее меня ждала,
Чтобы глаз своих синей ясности
Дома трусу не отдала.
Взял бы в рай с собой друга верного,
Чтобы было с кем пировать,
И врага, чтоб в минуту скверную
По-земному с ним враждовать.
Ни любви, ни тоски, ни жалости,
Даже курского соловья,
Никакой, самой малой малости
На земле бы не бросил я.
Даже смерть, если б было мыслимо,
Я б на землю не отпустил,
Всё, что к нам на земле причислено,
В рай с собою бы захватил.
И за эти земные корысти,
Удивлённо меня кляня,
Я уверен, что бог бы вскорости
Вновь на землю столкнул меня.