Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Anh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Anh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Thơ tình Charlotte Brontë


ĐỜI
 
Đời không là một giấc mơ
Mà đêm tối – như người ta thường nói.
Buổi sáng trời đổ cơn mưa nhỏ
Là dấu hiệu của một ngày vui.
 
Đôi khi mưa gió đầy trời
Nhưng rồi qua nhanh sau đấy
Mưa cho hoa hồng tươi lại
Hết buồn là đến vui thôi.
 
Những giờ khắc của cuộc đời
Đã đi không còn quay lại
Tận hưởng những ân huệ ấy
Bởi chúng đang bay, đang bay.
 
Cái chết thì vẫn đâu đây
Theo cuộc đời như chiếc bóng
Khi nào tử thần lên tiếng
Số kiếp sẽ định đoạt thôi.
 
Hy vọng luôn có trong đời
Giúp ta dễ dàng chiến thắng
Hy vọng chính là đôi cánh
Mang ta bay giữa bầu trời.
 
Mặc cho còn nhiều trở ngại
Mà ta sẽ gặp trong đời
Nhưng vinh quang và tuyệt vời
Là những tháng năm đang đợi!
 
Life
 
Life, believe, is not a dream
So dark as sages say;
Oft a little morning rain
Foretells a pleasant day.
 
Sometimes there are clouds of gloom,
But these are transient all;
If the shower will make the roses bloom,
O why lament its fall?
 
Rapidly, merrily,
Life’s sunny hours flit by,
Gratefully, cheerily
Enjoy them as they fly!
 
What though Death at times steps in,
And calls our Best away?
What though sorrow seems to win,
O’er hope, a heavy sway?
 
Yet Hope again elastic springs,
Unconquered, though she fell;
Still buoyant are her golden wings,
Still strong to bear us well.
 
Manfully, fearlessly,
The day of trial bear,
For gloriously, victoriously,
Can courage quell despair!
 
 
VỀ CÁI CHẾT CỦA EMILY
 
Em không bao giờ còn biết
Nỗi đau của cả gia đình
Khổ sở vì không còn em.
Chỉ còn nước mắt an ủi
Trong tuyện vọng và buồn tủi
Trong im lặng, đau buồn.
 
Không còn nỗi đau hằng đêm
Không còn nỗi đau ly biệt
Từng hành hạ tâm hồn em
Khi con tim đau khổ
Và con tim cầu cứu
Một điều gì đó trong đêm.
 
Và em không còn nhớ rằng
Mắt trống rỗng nhìn phía trước
Cuộc đời hoang vu cô độc.
“Mệt mỏi, tăm tối, thê lương
Làm sao chịu được hành trình
Nặng nề và khó nhọc?”
 
Đã qua nỗi đau kinh hoàng
Gia đình mong em yên nghỉ
Cuộc đời là bể khổ.
Cầu Chúa sự bình yên
Và tĩnh lặng, và hân hoan
Khi về với em nơi đó.
 
On the Death of Emily Jane Brontë
 
My darling thou wilt never know
The grinding agony of woe
That we have bourne for thee,
Thus may we consolation tear
E'en from the depth of our despair
And wasting misery.
 
The nightly anguish thou art spared
When all the crushing truth is bared
To the awakening mind,
When the galled heart is pierced with grief,
Till wildly it implores relief,
But small relief can find.
 
Nor know'st thou what it is to lie
Looking forth with streaming eye
On life's lone wilderness.
"Weary, weary, dark and drear,
How shall I the journey bear,
The burden and distress?"
 
Then since thou art spared such pain
We will not wish thee here again;
He that lives must mourn.
God help us through our misery
And give us rest and joy with thee
When we reach our bourne!
 

 
VỀ CÁI CHẾT CỦA ANNE
 
Dường như đời tôi đã hết
Chết không sợ. Sống không thương
Ánh sáng của tôi là em
Tôi chết vì em, nếu được.
 
Tôi thấy, khi đôi mắt khép
Em trút hơi thở cuối cùng
Tôi đợi bóng hoàng hôn
Phủ lên làn da tái nhợt.
 
Để làn gió xua đám mây
Để mặt trời sẽ lặn
Con tim chân thành nồng ấm
Xin đa tạ Chúa điều này.
 
Không ai còn giúp được tôi
Chén cuộc đời uống cạn
Rồi một đêm nào kinh khủng
Tôi một mình sẽ ra đi.
 
On The Death Of Anne Brontë
 
There's little joy in life for me,
 And little terror in the grave;
I've lived the parting hour to see
 Of one I would have died to save.
 
Calmly to watch the failing breath,
 Wishing each sigh might be the last;
Longing to see the shade of death
 O'er those belovèd features cast.
 
The cloud, the stillness that must part
 The darling of my life from me;
And then to thank God from my heart,
 To thank Him well and fervently;
 
Although I knew that we had lost
 The hope and glory of our life;
And now, benighted, tempest-tossed,
 Must bear alone the weary strife.
 

Thơ tình Emily Brontë


TÌNH YÊU VÀ TÌNH BẠN
 
Tình yêu giống như cây hoa hồng dại
Còn tình bạn giống như cây nhựa ruồi
Nhựa ruồi tối còn hoa hồng tươi rói
Nhưng loài hoa nào mới nở được lâu?
 
Hoa hồng dại ngọt ngào giữa mùa xuân,
Và mùa hè nó tỏa hương thơm ngát
Nhưng than ôi, chỉ vừa mới mùa đông
Ai còn gọi hoa hồng kia là đẹp?
 
Hãy vứt bỏ vòng hoa hồng ngớ ngẩn
Đội cho mình vòng hoa bằng nhựa ruồi
Khi tháng mười hai tối tăm vầng trán
Thì nhựa ruồi vẫn xanh mãi không thôi.
__________
*Theo truyền thuyết thì trên chiếc vòng gai mà Đức Chúa Giê-su đã đội khi bị đóng đinh trên cây thập tự có các nhánh nhựa ruồi.
 
Love and Friendship
 
Love is like the wild rose-briar,
Friendship like the holly-tree—
The holly is dark when the rose-briar blooms
But which will bloom most constantly?
 
The wild rose-briar is sweet in spring,
Its summer blossoms scent the air;
Yet wait till winter comes again
And who will call the wild-briar fair?
 
Then scorn the silly rose-wreath now
And deck thee with the holly’s sheen,
That when December blights thy brow
He still may leave thy garland green.
 
 

SỰ THƯƠNG CẢM
 
Đừng bao giờ tuyệt vọng
Sao còn sáng trong đêm
Buổi tối còn giọt sương
Và nắng vàng buổi sáng.
 
Đừng bao giờ tuyệt vọng
Dù nước mắt như sông
Có phải vẫn trong lòng
Những tháng năm đã sống?
 
Bạn khóc – người cũng khóc
Cơn gió cũng thở than
Lá thu, tuyết mùa đông
Giống như người khóc lóc.
 
Tất cả do phận số
Không tránh được điều kia
Quan trọng không bao giờ
Để con tim tan vỡ!
 
Sympathy
 
There should be no despair for you
While nightly stars are burning,
While evening pours its silent dew
And sunshine gilds the morning.
 
There should be no despair, though tears
May flow down like a river:
Are not the best beloved of years
Around your heart forever?
 
They weep - you weep - it must be so;
Winds sigh as you are sighing;
And Winter sheds its grief in snow
Where Autumn"s leaves are lying:
 
Yet these revive, and from this fate
Your fate cannot be parted,
Then journey on, if not elate,
Still, never broken-hearted!
 
 
NGƯỜI KHẮC KỶ XƯA
 
Tài sản của tôi đấy là ánh sáng
Tôi coi khinh, tôi nhạo báng với tình
Và sự khát khao đạt đến vinh quang
Chỉ là giấc mơ biến mất buổi sáng.
 
Chỉ một điều mà tôi đang cầu khẩn
Chỉ một điều vang lên giữa bờ môi:
“Xin hãy cho tôi có được tự do
Và hãy để con tim này yên tĩnh!”
 
Vâng, ngày tháng của tôi rất chóng vánh
Nhưng tôi vẫn không phải sống vội vàng
Trong sự sống, cái chết cần linh hồn
Với lòng can đảm để mà chịu đựng.
 
The Old Stoic
 
Riches I hold in light esteem;
And Love I laugh to scorn;
And lust of fame was but a dreem
That vanished with the morn.
 
And if I pray, the only prayer
That moves my lips for me
Is, 'Leave the heart that now I bear,
And give me liberty !'
 
Yes, as me swift days near their goal,
'Tis all that I implore;
In life and death, a chainless soul,
With courage to endure.
 
 


HY VỌNG
 
Hy vọng không là bạn
Kẻ vô công rồi nghề
Ngồi xem có điều gì
Số phận tôi mang đến.
 
Đôi khi còn tàn nhẫn
Khi tôi có việc cần
Khi tôi gọi cô nàng
Thì cô nàng chạy trốn!
 
Và cũng rất khó nhọc
Mọi việc chẳng hòa đồng
Khi tôi khóc, nó mừng
Khi tôi mừng – nó khóc.
 
Cũng chẳng có lòng thương
Những khi tôi đau đớn
Làm ơn! – tôi lên tiếng
Thì hy vọng quay lưng.
 
Đừng mong, đừng chờ đợi
Hy vọng như con chim
Bay vào giữa trời xanh
Không bao giờ quay lại!
 
Hope
 
Hope was but a timing friend;
She sat without the grated den,
Watching how my fate would tent,
Even as selfish-hearted men.
 
Are was cruel in her fear;
Trought the bars, one dreary day,
I looked out to see her there,
And she turned her face away !
 
Like a false guard, fals watch keeping,
Still, in strife, she whispered peace;
She would sing while I was weeping,
If I listened, she woould cease.
 
False she was, and unrelenting;
When my last joys strewed the ground,
Even Sorrow saw, repenting,
Those sad relics scattered round;
 
Hope, whose whisper would have given
Balm to all my frenzied pain,
Stretched her wings, and soared to heaven,
Went, and ne'er returned again!
 
 
TÔI HẠNH PHÚC KHI VỀ NƠI XA THẲM
 
Tôi hạnh phúc khi về nơi xa thẳm
Mang linh hồn từ cát bụi vào đêm
Nhè nhẹ gió và ánh trăng chiếu sáng
Xuyên qua bao thế giới dõi mắt nhìn.
 
Không còn tôi, không còn ai bên cạnh
Không mặt đất, không biển, chẳng còn mây
Nơi chỉ có linh hồn tôi tôi thơ thẩn
Trong cõi bao la vô tận không thôi.
 
I'm happiest when most away
 
I'm happiest when most away
I can bear my soul from its home of clay
On a windy night when the moon is bright
And the eye can wander thru worlds of light
 
When I am not and none beside
Nor earth nor sea nor cloudless sky
But only spirit wandering wide
Through infinite immensity.


Thơ tình Anne Brontë



LỜI CẦU KHẨN
 
Em mệt mỏi vô cùng
Đã không còn nước mắt
Mắt mỏi mệt vì khóc
Con tim – vì nỗi buồn.
 
Cuộc đời em cô đơn
Tháng ngày trôi buồn bã
Còn anh, anh yêu ạ
Sao không đến với em?
 
Em cứ đợi chờ anh
Ngày này sang ngày khác
Xin anh đừng lấy mất
Niềm hy vọng của em!
 
Appeal
 
Oh, I am very weary,
Though tears no longer flow;
My eyes are tired of weeping,
My heart is sick of woe;
 
My life is very lonely,
My days pass heavily,
I'm weary of repining,
Wilt thou not come to me ?
 
Oh, didst thou know my longins
For thee, from day to day,
My hopes, so often blighted,
Thou wouldst not thus delay !
 
 
NGƯỜI ĐANG SÁM HỐI
 
Em thương tiếc cho anh
Em thắp lên ngọn nến
Cùng thiên thần cất giọng
Cầu cho kẻ lỗi lầm.
 
Dù bạn bè quay lưng
Và người đời khinh miệt
“Phước cho kẻ đang khóc”
Chúa đã nói lời trên.
 
Bàn tay của em đây
Và không cần buồn chán
Vì sẽ có “phần thưởng
Rất lớn ở trên trời”.
_____________
*Những câu “Phước cho kẻ đang khóc…” và “phần thưởng rất lớn ở trên trời…” là những lời của Chúa Giê-su trong “Bài giảng trên núi” (Ma-thi-ơ V – 4,12).
 
The Penitent
 
I mourn with thee, and yet rejoice
That thou shouldst sorrow so;
With angel choirs I join my voice
To bless the sinner's woe.
 
Though friends and kindred turn away,
And laugh thy gfrief to scorn;
I hear the great Redeemer say,
'Blessed are ye that mourn.'
 
Hold on the course, nor deem it strange
That earthly cords are riven:
Man may lament the wondrous change,
But 'there is joy in heaven !'
 
 

HỒI TƯỞNG
 
Anh đi rồi! Và đã không còn nữa
Nụ cười tỏa nắng cho hạnh phúc em
Còn em lại bước vào nhà thờ cũ
Bước chân lên nơi phía dưới anh nằm.
 
Em thả hồn thơ thẩn trong lặng yên
Và nghĩ rằng con tim nằm phía dưới
Con tim quí nhất mà em biết tới
Đối với em hơn mọi thứ trên trần.
 
Và dù cho em chẳng nhìn thấy anh
Nhưng đường nét, dáng hình em vẫn nhớ
Dù anh đã đi, anh không còn nữa
Ký ức vẫn còn sống mãi trong em.
 
Em vui sướng nghĩ rằng linh hồn anh
Sẽ bay lên trời trở về với Chúa
Sẽ hòa nhập cùng với những thiên thần
Và nhớ về mối tình em vẫn giữ.
 
A Reminiscence
 
Yes, thou art gone and never more
Thy sunny smile shall gladden me;
But I may pass the old church door
And pace the floor that covers thee;
 
May stand upon the cold, damp stone,
And think that frozen lies below
The lightest heart that I have known,
The kindest I shall ever know.
 
Yet, though I cannot see thee more
'Tis still a comfort to have seen,
And though thy transient life is o'er
'Tis sweet to think that thou hast been;
 
To think a soul so near divine,
Within a form so angel fair
United to a heart like thine
Has gladdened once our humble sphere.
 

Thơ tình Nữ hoàng Elizabeth I


KHI TÔI CÒN TRẺ ĐẸP
 
Khi tôi còn trẻ đẹp
Nhiều người tìm đến tôi
Nhưng mà tôi khinh miệt
Và tôi đã trả lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
Bao kẻ rơi nước mắt
Bao người khổ vì tôi
Mặc người ta khóc lóc
Còn tôi vẫn trả lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
Thần Tình yêu có mặt
Rằng em thật đáng yêu
Chỉ vì em nhút nhát
Ta lấy đi những lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
Và ngay trong lúc này
Lửa yêu bừng trong ngực
Khi đó tôi thấy tiếc
Vì đã nói những lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
When I Was Fair and Young
 
When I was fair and young, then favor graced me.
Of many was I sought their mistress for to be.
But I did scorn them all and answered them therefore:
Go, go, go, seek some other where; importune me no more.
 
How many weeping eyes I made to pine in woe,
How many sighing hearts I have not skill to show,
But I the prouder grew and still this spake therefore:
Go, go, go, seek some other where, importune me no more.
 
Then spake fair Venus’ son, that proud victorious boy,
Saying: You dainty dame, for that you be so coy,
I will so pluck your plumes as you shall say no more:
Go, go, go, seek some other where, importune me no more.
 
As soon as he had said, such change grew in my breast
That neither night nor day I could take any rest.
Wherefore I did repent that I had said before:
Go, go, go, seek some other where, importune me no more.
 
 
BẤT CHẤP VẬN MAY
 
Đừng bao giờ trông chờ ở vận may.
Lòng dũng cảm buộc nó phải vâng lời.
 
In Defiance of Fortune
 
Never think you fortune can bear the sway
Where virtue’s force can cause her to obey.
 
 

VIẾT BẰNG KIM CƯƠNG
TRÊN CỬA SỔ Ở WOODSTOCK
 
Nghi ngờ nhiều vô cùng
Không gì chứng minh được
Elizabeth tù nhân.
___________

*Woodstock là một điền trang ở Oxfordshire, nơi Công chúa Elizabeth bị quản thúc tại gia vào năm 1554-55 sau khi bị giam giữ hai tháng trong Tháp (Tower of London).
 
Written with a Diamond on her Window at Woodstock
 
Much suspected by me,
Nothing proved can be,
Quoth Elizabeth prisoner.
 
 
VIẾT TRONG SÁCH THÁNH VỊNH
 
Những người mờ mắt, những người vẹo chân
Đừng vội gọi họ là người quái dị
Nhưng cần gọi bằng cái tên như thế
Với những ai luôn nghi kỵ bên trong.
 
Written in her French Psalter
 
No crooked leg, no bleared eye,
No part deformed out of kind,
Nor yet so ugly half can be
As is the inward suspicious mind.
 

Thơ tình Mary, Nữ hoàng Scotland

 



GỬI NGƯỜI TÌNH BOTHWELL*
 
Vì anh tôi quên danh dự của mình –
Thứ hạnh phúc trần gian tôi có được.
Tôi trao anh cả lương tâm, quyền lực
Vì anh mà tôi bỏ lại người thân
Nơi quê mình bị người ta khinh miệt.
 
Cũng vì anh bạn bè tôi quên hết
Đi kết thân với kẻ địch của mình
Tôi hy sinh tâm hồn và ý thức
Và những gì kiêu hãnh ở trần gian
Vì yêu anh mà tôi vui lòng chết.
 
Tôi dâng hết ngai vàng và vương miện
Có thể cuối cùng anh sẽ hiểu ra
Đối với tôi quan trọng một điều là
Sống vì anh và phục tùng ngoan ngoãn.
 
Chỉ vì anh tôi đợi chờ may mắn
Và giữ gìn sức khỏe chỉ vì anh
Dành cho anh một tình yêu quên mình
Và luôn hướng tới những điều cao thượng.
__________________
*James Hepburn, Bá tước thứ 4 của Bothwell.
 
Pour luy depuis j'ay mesprise I'honneur
 
Pour luy depuis j'ay mesprise I'honneur,
Ce qui nous peust seui pourvoir de bonheur.
Pour luy j'ay hasarde grandeur &; conscience,
Pour luy tous mes parens j'ay quitte &; amis,
Et tous autres respectz sont a part mis.
    
Pour luy tous mes amis j'estime moins que rien,
Et de mes ennemis je veux esperer bien.
J'ay hasafde pour luy nom &; conscience
Je veux pour luy au monde renoncer,
Je veux mourir pour Ie faire avancer.
 
Pour luy je veux recherc'ner la grandeur,
Et feray tant que de vray congnoistra
Que je n'ay bien, heur, ne contentement,
Qu'a I'obeir &; servir loyaument.
    
Pour luy j'attends toute bonne fortune,
Pour luy je veux garder sante &; vie,
Pour luy tout vertu de suivre j'ay envie,
Et sans changer me trouvera tout'une.
 
 

VIẾT Ở LÂU ĐÀI FOTHERINGHAY*
 
Ta là gì? Ta sống để làm chi?
Cái xác không hồn, vật vờ chiếc bóng
Là đối tượng của bao điều bất hạnh
Còn sống đây nhưng cái chết đang chờ.
 
Kẻ thù kia, xin gác lại hận thù
Ta bây giờ chẳng còn mơ danh vọng
Vì ta đã chịu quá nhiều đau đớn
Nỗi đau này ta nhận hết về ta.
 
Và bạn bè, những người đã yêu vì
Hãy nhớ rằng ta không còn sức nữa
Làm việc gì cho người nọ, người kia
 
Giờ chỉ mong chấm dứt khổ đau này
Để sớm từ giã cuộc đời bất hạnh
Với niềm vui nơi cực lạc ta về.
____________

*Mary viết bài thơ này trong thời gian bà bị giam giữ ở lâu đài Fotheringhay và bị chặt đầu ngay sau đó.
 
Que suis-je, hélas ! et de quoi sert ma vie?
 
Que suis-je, hélas ! et de quoi sert ma vie?
Je ne suis fors qu'un corps privé de coeur,
Une ombre vaine, un objet de malheur,
Qui n'a plus rien que de mourir envie.
 
Plus ne portez, ô ennemis, d'envie
A qui n'a plus l'esprit à la grandeur,
Ja consommé d'excessive douleur.
Votre ire en bref se verra assouvie.
 
Et vous, amis, qui m'avez tenue chère,
Souvenez-vous que sans heur, sans santé,
Je ne saurais aucun bon oeuvre faire.
 
Souhaitez donc fin de calamité
Et que ci-bas, étant assez punie,
J'aye ma part en la joie infinie.
 

Thơ tình George Herbert


BẢN CHẤT
 
Lạy Chúa tôi, thơ không là vương miện
Thơ không vì nổi tiếng hoặc hư danh
Không phải lời khen trong những tiệc tùng
Không phải cây đàn, không là thanh kiếm.
 
Thơ không biết chơi đàn hay nhảy nhót
Không phải người Pháp hoặc Tây Ban Nha
Thơ sinh ra không phải để làm trò
Hay giải trí để người ta mời mọc.
 
Thơ lặng lẽ, không ồn ào thế tục
Không phải sàn chứng khoán hay hội trường
Nhưng tôi làm thơ là để tôn vinh
Tôi ca tụng Chúa và tôi có hết.
 
The Quiddity
 
My God, a verse is not a crown,
No point of honour, or gay suit,
No hawk, or banquet, or renown,
Nor a good sword, nor yet a lute:
 
It cannot vault, or dance, or play;
It never was in France or Spain ;
Nor can it entertain the day
With a great stable or demesne:
 
It is no office, art, or news,
Nor the Exchange, or busy Hall;
But it is that which while I use
I am with thee, and Most take all.
 
 


ĐÔI CÁNH PHỤC SINH
 
Chúa tạo ra con người và của cải Chúa đã ban
Nhưng con người ngốc nghếch đã làm mất hết
Và ngày một suy tàn
Cho đến khi trở thành
Kém nhất.
 
Hãy cho con được bay lên
Với Chúa
Như một con chim sơn ca bé nhỏ
Hát ngợi ca những chiến thắng của Người
Nếu con bị ngã có tay Người nâng đỡ.
 
Con lớn lên trong nỗi buồn từ nhỏ
Những bệnh tật và xấu hổ vẫn còn
Người đã trừng phạt những lỗi lầm
Và con cảm thấy mình
Vô cùng nhỏ bé.
 
Hãy để cho con được hòa nhập lại
Với Người
Để ngợi ca chiến thắng ngày hôm nay
Người hãy ban cho con đôi cánh
Dù đớn đau, con bay đến với Người.
 
Easter-wings
 
Lord, who created'st man in wealth and store,
Though foolishly he lost the same,
Decaying more and more,
Till he became
Most poor.
 
With thee
O let me rise
As larks, harmoniously,
And sing this day thy victories;
Then shall the fall further the flight in me.
 
My tender age in sorrow did begin;
And still with sicknesses and shame
Thou didst so punish sin,
That I became
Most this.
 
With thee
Let me combine
And feel this day thy victory;
For, if I imp my wing on thine,
Affliction shall advance the flight in me.
 


Thơ tình Robert Southey



NHỮNG LỜI THAN PHIỀN CỦA NGƯỜI NGHÈO
 
“Tại vì sao người nghèo hay than phiền?”
Người đàn ông giàu hỏi tôi như vậy
“Hãy đi ra ngoài với tôi – tôi nói –
Tôi sẽ tìm câu trả lời cho ông”.
 
Buổi tối tuyết rơi trên những con đường
Và trong không gian một cơn gió lạnh
Còn chúng tôi ăn mặc không đủ ấm
Dù chúng tôi mặc quần áo mùa đông.
 
Chúng tôi gặp một ông già đầu trần
Những sợi tóc trên đầu ông bạc trắng.
Tôi hỏi: “Vì sao trong đêm giá lạnh
Mà ông vẫn bước ra đường?”
 
“Thật khổ cái thân này – ông già nói –
Nhà tôi không có lửa, lạnh như băng
Cực chẳng đã tôi phải bước ra đường
Mong sẽ xin ai đó cho bó củi”.
 
Chúng tôi gặp một đứa bé chân trần
Cô bé này mặc áo quần rách rưới
“Tại vì sao đi ra đường – tôi hỏi –
Giữa trời đêm gió lạnh và giá băng?”
 
Cô bé nói rằng: cha cô ở nhà
Đang ốm nặng, nằm liệt giường liệt chiếu
Mà trong nhà không có gì ăn cả
Cô phải đi để xin bánh nuôi cha.
 
Và chúng tôi thấy một người phụ nữ
Ngồi trên một hòn đá để nghỉ chân
Một đứa con cô mang ở sau lưng
Một đứa phía trước cô đang cho bú.
 
“Tại vì sao chị ở đây – tôi hỏi –
Giữa trời đêm gió lạnh của mùa đông
Tôi cảm thấy thương cho những đứa con”
Người phụ nữa trả lời tôi như vậy:
 
“Chồng của tôi là một người lính trận
Vì nhà vua đã đi ra chiến trường
Tôi ở nhà phải tự mình nuôi con
Phải ra đường xin bánh mì để sống”.
 
Một cô gái ăn mặc rất nhẹ nhàng
Mắt trũng sâu nhưng nhìn cô vẫn đẹp
Cô mỉm cười nhìn chúng tôi gần mặt
Có vẻ như một cô gái đứng đường.
 
Tôi hỏi rằng có tội lỗi gì không
Nếu tôi nói một điều không giấu giếm
Cô gái trả lời: “Nhà em nghèo lắm
Suốt cả ngày chưa có chút gì ăn”.
 
Người đàn ông giàu có đứng lặng im
Tôi nói rằng: “Bây giờ ông đã thấy
Mọi người đã trả lời cho câu hỏi:
Tại vì sao người nghèo hay than phiền?”
 
The Complaints of the Poor
 
And wherefore do the Poor complain?
The rich man asked of me,--
Come walk abroad with me, I said
And I will answer thee.
 
Twas evening and the frozen streets
Were cheerless to behold,
And we were wrapt and coated well,
And yet we were a-cold.
 
We met an old bare-headed man,
His locks were few and white,
I ask'd him what he did abroad
In that cold winter's night:
 
'Twas bitter keen indeed, he said,
But at home no fire had he,
And therefore, he had come abroad
To ask for charity.
 
We met a young bare-footed child,
And she begg'd loud and bold,
I ask'd her what she did abroad
When the wind it blew so cold;
 
She said her father was at home
And he lay sick a-bed,
And therefore was it she was sent
Abroad to beg for bread.
 
We saw a woman sitting down
Upon a stone to rest,
She had a baby at her back
And another at her breast;
 
I ask'd her why she loiter'd there
When the wind it was so chill;
She turn'd her head and bade the child
That scream'd behind be still.
 
She told us that her husband served
A soldier, far away,
And therefore to her parish she
Was begging back her way.
 
We met a girl; her dress was loose
And sunken was her eye,
Who with the wanton's hollow voice
Address'd the passers by;
 
I ask'd her what there was in guilt
That could her heart allure
To shame, disease, and late remorse?
She answer'd, she was poor.
 
I turn'd me to the rich man then
For silently stood he,
You ask'd me why the Poor complain,
And these have answer'd thee.
 
 


CORNELIUS AGRIPPA, BÀI BALLAD VỀ CHÀNG TRAI
ĐỌC SÁCH BẤT HỢP PHÁP VÀ BỊ TRỪNG PHẠT
 
Cornelius Agrippa một hôm lên đường
Đã cẩn thận khóa căn phòng của mình
Trao chìa khóa và dặn dò người vợ
Không cho một ai được phép vào trong.
 
“Nếu có ai hỏi muốn được vào phòng
Thì em từ chối người ta thẳng thừng
Bất kể ai, dù van nài cầu khẩn
Vẫn cứ nói không và chỉ nói không”.
 
Có một chàng trai trẻ sống ở gần
Từ lâu muốn được ghé vào gian phòng
Chàng nài nỉ và cầu xin người vợ
Người vợ ngu trao chìa khóa cho chàng.
 
Một cuốn sách dày dặn đặt trên bàn
Mà Agrippa vừa mới đọc xong
Những hàng chữ được viết bằng máu đỏ
Bìa bằng da của người đã lìa trần.
 
Những trang sách ma thuật và kinh hoàng
Đầy những hình ảnh quái dị lạ lùng
Na ná nhau và vô cùng khó hiểu
Chẳng làm sao kể lại được kỹ càng.
 
Và chàng trai bắt đầu đọc từng trang
Thấy khó hiểu, ý nghĩa rất tối tăm
Đột nhiên nghe thấy tiếng người gõ cửa
Chàng vẫn đọc nhưng tiếng gõ mạnh hơn.
 
Tiếng gõ càng mạnh và rất lạ lùng
Chàng không biết điều gì đến với mình
Chàng ngồi yên, run rẩy và khiếp sợ
Cho đến khi xuất hiện quỷ Sa-tăng.
 
Hai cái sừng trên đầu rất kinh hoàng
Giống như sắt chỉ vừa mới nung xong
Và một làn khói xanh từ lỗ mũi
Còn cái đuôi như con rắn vẫy vùng.
 
“Ngươi cần gì ở ta?” – quỷ kêu lên
Nhưng chàng trai trẻ chỉ biết lặng im
Mọi sợi tóc trên đầu chàng dựng đứng
Chân tay của chàng đều lẩy bẩy run.
 
“Người cần gì?” – quỷ tiếp tục kêu lên
Còn chàng trai trẻ tiếp tục lặng im
Những lời trên môi của chàng hóa đá
Một nỗi kinh hoàng thấu tận vào xương.
 
“Người cần gì?” – lần thứ ba kêu lên
Những tia chớp từ đôi mắt kinh hoàng
Quỷ giơ móng vuốt giữa bầu không khí
Chàng trai không kịp cầu nguyện cho mình.
 
Đôi mắt quỷ rực lửa và điên cuồng
Khi quỷ xé nát trái tim của chàng
Nhe hàm răng và quỷ cười toe toét
Theo tiếng sấm rền quỷ biến mất tăm.
 
LỜI RĂN
 
Hỡi những chàng trai trẻ, hãy coi chừng
Khi tìm đọc những cuốn sách linh thiêng.
 
Cornelius Agrippa; A Ballad, of a Young Man
that would Read Unlawful Books, and how he was Punished
 
CORNELIUS AGRIPPA went out one day;
His study he lock'd ere he went away,
And he gave the key of the door to his wife,
And charged her to keep it lock'd on her life.
 
"And if any one ask my Study to see,
I charge you to trust them not with the key;
Whoever may beg, and entreat, and implore,
On your life let nobody enter that door."
 
There lived a young man in the house, who in vain
Access to that Study had sought to obtain;
And he begg'd and pray'd the books to see,
Till the foolish woman gave him the key.
 
On the Study-table a book there lay,
Which Agrippa himself had been reading that day;
The letters were written with blood therein,
And the leaves were made of dead men's skin;-
 
And these horrible leaves of magic between
Were the ugliest pictures that ever were seen,
The likeness of things so foul to behold,
That what they were is not fit to be told.
 
The young man he began to read
He knew not what; but he would proceed,
When there was heard a sound at the door
Which, as he read on, grew more and more.
 
And more and more the knocking grew;
The young man knew not what to do;
But, trembling, in fear he sat within,
Till the door was broke, and the Devil came in.
 
Two hideous horns on his head he had got,
Like iron heated nine times red-hot;
The breath of his nostrils was brimstone blue,
And his tail like a fiery serpent grew.
 
"What wouldst thou with me?" the Wicked One cried,
But not a word the young man replied;
Every hair on his head was standing upright,
And his limbs like a palsy shook with affright.
 
"What wouldst thou with me?" cried the Author of ill;
But the wretched young man was silent still;
Not a word had his lips the power to say,
And his marrow seem'd to be melting away.
 
"What wouldst thou with me?" the third time he cries,
And a flash of lightning came from his eyes,
And he lifted his griffin claw in the air,
And the young man had not strength for a prayer.
 
His eyes red fire and fury dart
As out he tore the young man's heart;
He grinn'd a horrible grin at his prey;
And in a clap of thunder vanish'd away.
 
THE MORAL
 
Henceforth let all young men take heed
How in a Conjurer's books they read.
 
 
NHỮNG CUỐN SÁCH CỦA TÔI
 
Ngày của tôi giữa những người đã chết
Họ vẫn đâu đây ở xung quanh tôi
Đôi mắt của họ vẫn nhìn không rời
Những bộ óc của những người vĩ đại
Tôi kết bạn với những con người ấy
Và tôi trò chuyện với họ hàng ngày.
 
Ý nghĩ, tình cảm và những niềm vui
Tôi nhận biết, tôi sẻ chia với họ
Và tôi cảm thấy mình mang nợ
Với những con người này
Và tôi khóc mà không cần đến lời
Tôi biết rằng tôi luôn mang ơn họ.
 
Tôi đang sống giữa những con người đó
Ý nghĩ của tôi về tháng ngày qua
Trong mọi điều suy luận, trong tình yêu
Trong những niềm hy vọng và nỗi sợ
Và tất cả bài học mà tôi có
Đều đến từ những người vĩ đại kia.
 
Hy vọng của tôi với người đã chết
Tôi sẽ ra đi khi đến lượt mình
Cùng với họ tôi sẽ theo con đường
Mà số phận của mình từng sắp đặt
Nhưng tôi vẫn tin rằng những cuốn sách
Và cái tên còn mãi với thời gian.
 
His Books
 
My days among the Dead are past;
Around me I behold,
Where'er these casual eyes are cast,
The mighty minds of old;
My never-failing friends are they,
With whom I converse day by day.
 
With them I take delight in weal,
And seek relief in woe;
And while I understand and feel
How much to them I owe,
My cheeks have often been bedew'd
With tears of thoughtful gratitude.
 
My thoughts are with the Dead, with them
I live in long-past years,
Their virtues love, their faults condemn,
Partake their hopes and fears,
And from their lessons seek and find
Instruction with an humble mind.
 
My hopes are with the Dead, anon
My place with them will be,
And I with them shall travel on
Through all Futurity;
Yet leaving here a name, I trust,
That will not perish in the dust.