Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

Thơ tình Seamus Heaney



GIÃ BIỆT

Cô em mặc váy kẻ ô
Và chiếc áo choàng đơn giản
Từ ngày cô bỏ nhà đi
Ngôi nhà tiêu điều, hoang vắng.

Khi em có mặt
Thời gian thả neo
Trên nụ cười, nhưng em đi mất
Nhổ neo, choáng váng tình yêu.

Tháng ngày vội vàng, gấp rút
Đi qua hết gần cuốn lịch
Dồn vào lặng lẽ âm thanh
Của giọng nói em dịu dàng.

Thiếu em, tan tác bến bờ anh
Em đi rồi, anh một mình trên biển
Đến một ngày em chưa bỏ lệnh
Thì anh vẫn còn nổi loạn, cuồng điên.

Valediction

Lady with the frilled blouse
And simple tartan skirt,
Since you have left the house
Its emptiness has hurt

All thought. In your presence
Time rode easy, anchored
On a smile; but absence
Rocked love's balance, unmoored

The days. They buck and bound
Across the calendar
Pitched from the quiet sound
Of your flower-tender

Voice. Need breaks on my strand;
You've gone, I am at sea.
Until you resume command
Self is in mutiny.


YÊU DẤU ARAN(1)

những con sóng muôn đời, sạch sẽ, trắng trong, kính vỡ
đi vào vách đá, làm cho mắt lóa, sững sờ
những con sóng đến từ hai châu Mỹ.

chinh phục Aran. Hay là Aran vội vã
giang rộng vòng tay của đá bên con nước thủy triều
có phải chết con nước ròng và nhẹ nhàng tan vỡ?

biển vạch ranh giới với đất liền, hay đất với biển?
biển xâm phạm đất liền để hòa quyện vào nhau
theo cách của mình, ý nghĩa từng con sóng.
__________

(1)Aran – một hòn đảo ở bờ tây của Ai-len

Lovers on Aran

The timeless waves, bright, sifting, broken glass,
Came dazzling around, into the rocks,
Came glinting, sifting from the Americas

To posess Aran. Or did Aran rush
to throw wide arms of rock around a tide
That yielded with an ebb, with a soft crash?

Did sea define the land or land the sea?
Each drew new meaning from the waves' collision.
Sea broke on land to full identity.



THÁNH FRANCIS VÀ CHIM

Khi Francis rao giảng tình yêu cho chim
Chúng lắng nghe, đập, vỗ cánh rồi bay
Lên trời xanh, giống như một bầy lời.

Lời mua vui từ môi thánh của Ngài.
Sau quay trở lại trên đầu bay lượn
Nhảy múa trên chiếc mũ của anh trai.

Nhảy trên cánh, những con chim đùa vui
Và hát lên, như hình ảnh đang bay.
Bài thơ hay nhất mà Francis thể hiện
Lý lẽ chính xác và giọng Ngài mềm mỏng. 

Saint Francis and the birds

When Francis preached love to the birds,
They listened, fluttered, throttled up
Into the blue like a flock of words

Released for fun from his holy lips.
Then wheeled back, whirred about his head,
Pirouetted on brother's capes,

Danced on the wing, for sheer joy played
And sang, like images took flight.
Which was the best poem Francis made,
His argument true, his tone light.


GIÀN GIÁO

Những người thợ khi bắt đầu xây nhà
Kiểm tra kỹ xem giàn giáo chắc chưa

Để không bị rơi từ trên cao xuống
Kiểm tra thang, bắt vít ốc chắc chắn

Xây xong rồi mà đổ xuống ai cần
Bởi đá cứng, chắc chắn những bức tường.

Thì chuyện của anh và em cũng vậy
Em ngỡ rằng cây cầu xưa đã gãy

Em đừng sợ. Dù cho giàn giáo rơi
Nhưng ta đã xây tường chắc chắn rồi.

Scaffolding

Masons, when they start upon a building,
Are careful to test out the scaffolding;

Make sure that planks won't slip at busy points,
Secure all ladders, tighten bolted joints.

And yet all this comes down when the job's done,
Showing off walls of sure and solid stone.

So if, my dear, there sometimes seem to be
Old bridges breaking between you and me,

Never fear. We may let the scaffolds fall,
Confident that we have built our wall.



NGƯỜI ĐÀN ÔNG TOLLUND*
(The Tollund man)

Một hôm tôi đến Aarhus
Để xem xác ướp của ông
Quanh đầu có những vỏ đậu
Mũ da và mí mắt sưng. 

Ở bên quốc gia láng giềng
Người ta đã đào thấy ông
Những hạt giống mùa đông cuối
Tích tụ trong dạ dày ông.

Trần truồng – chỉ còn dây lưng
Mũ và dây vòng quanh cổ.
Tôi sẽ đứng lâu ở đó.
Chàng rể dành cho nữ thần

Người ta tìm thấy trong đầm
Than bùn giữ thân xác ông
Như là một thứ nước ép
Giữ gìn thân thể thiêng liêng. 

Giữ gìn thân xác thánh thần
Nhờ công lao của than bùn.
Bây giờ khuôn mặt còn vết
Được yên nghỉ trong bảo tàng.
__________
*Người đàn ông Tollund là xác chết được ướp xác tự nhiên của một người đàn ông sống vào thế kỷ thứ 4 tr. CN, trong thời kỳ đồ sắt tiền La Mã. Xác ướp này được tìm thấy ở Đan Mạch trong một đầm lầy than bùn. Xác ướp này được bảo tồn tốt đến mức, khi được phát hiện người ta đã lầm tưởng đây là nạn nhân của một vụ giết người gần đây. Xác ướp này hiện được bảo quản tại bảo tàng của Đại học Aarhus, Đan Mạch. 

The Tollund man

I
Some day I will go to Aarhus
To see his peat-brown head,
The mild pods of his eye-lids,
His pointed skin cap.

In the flat country near by
Where they dug him out,
His last gruel of winter seeds
Caked in his stomach,

Naked except for
The cap, noose and girdle,
I will stand a long time.
Bridegroom to the goddess,

She tightened her torc on him
And opened her fen,
Those dark juices working
Him to a saint's kept body,

Trove of the turfcutters'
Honeycombed workings.
Now his stained face
Reposes at Aarhus.



ANTAEUS(1)

Tôi thức dậy buổi bình minh
Như bông hoa hồng – tươi và sáng
Thì mối đe doạ của ngoại bang
Trong cuộc chiến này tôi sẽ thắng.

Những sức mạnh của đất đai
Những dòng nước ngầm sôi nổi
Tôi sẽ mang theo trong người
Khi tôi lăn vào trong đất bụi.

Nơi phát sinh của tôi – là bóng tối
Là đá ngầm, là gốc rễ của cây
Là cơn lốc ngầm và sự vần xoay
Là hang động, đất đai và nước nổi.

Cứ xuất hiện thêm một anh hùng mới
Hecrales trên đường đến khu vườn.
Nhưng để giết được tôi trong cuộc chiến tranh
Thì đánh nhau là điều không tránh khỏi.

Và giờ đây tôi nằm trong đất bụi
Nhưng sức mạnh mới tràn đầy
Dù nó biết rằng cần xua tôi đi khỏi
Mặt đất quê hương rất mạnh mẽ này.
____________
(1)Antaeus (Antaios) – theo thần thoại Hy Lạp là một trong số thần khổng lồ, là con trai của Poseidon và nữ thần Gaea Libia. Là thần không thể đánh bại một khi còn chạm vào mẹ mình là thần đất Gaea thì luôn lấy lại được sức mạnh. Hecrales trên đường đến khu vườn để lấy cắp quả táo của các nàng Hesperides đã giết được Antaeus bằng cách nhấc bổng thần lên cao rồi bóp chết (kì công thứ 11).

Antaeus

When I lie on the ground 
I rise flushed as a rose in the morning.
In fights I arrange a fall on the ring 
To rub myself with sand.

That is operative
As an elixir. I cannot be weaned
Off the earth's long contour, her river-veins.
Down here in my cave

Girded with root and rock
I am cradled in the dark that wombed me
And nurtured in every artery
Like a small hillock.

Let each new hero come
Seeking the golden apples and Atlas:
He must wrestle with me before he pass
Into that realm of fame

AMong sky-born and royal.
He may well throw me and renew my birth
But let him not plan, lifting me off the earth,
My elevation, my fall.


THEN CỬA BUÔNG

Then cửa buông – một tia nắng mỏng
Cắt vào sân chẳng nhìn ra.
Hành lang màu vàng chúng đi qua
Rồi lặng lẽ mất hút vào đêm vắng.

Ngày e ấp chiếu sáng lên
Khung cửa, bậc thềm và đá
Khi quay trở về, đêm lặng lẽ
Chùi lên sân đã thấy rõ rành. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét