Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

Thơ tình Edmund Spenser


SONNET 1

Thật hạnh phúc trong bàn tay hoa huệ
Giữ cuộc đời và cái chết của tôi
Trang giấy run rẩy dưới đôi tay này
Như tù nhân trước con mắt chúa tể.

Khi mắt nhìn vào những dòng hạnh phúc
Bằng ánh sáng của sao mắt lướt nhanh
Sau khi đọc hiểu ra được nỗi buồn
Viết bằng trái tim, máu và nước mắt.

Những vần thơ hạnh phúc được bắt nguồn
Từ dòng nước Helicon thần thánh
Món quà mà tôi được trời ban tặng
Là ánh mắt em – ánh mắt thiên thần.

Tập thơ này tôi viết để tặng em
Chỉ cần em vui – thiên hạ chẳng cần.

Sonnet 1

Happy ye leaves when as those lilly hands,
Which hold my life in their dead doing might,
Shall handle you and hold in loves soft bands,
Lyke captives trembling at the victors sight.

And happy lines, on which with starry light,
Those lamping eyes will deigne sometimes to look
And reade the sorrowes of my dying spright,
Written with teares in harts close bleeding book.

And happy rymes bath’d in the sacred brooke
Of Helicon whence she derived is,
When ye behold that Angels blessed looke,
My soules long lacked foode, my heavens blis.

Leaves, lines, and rymes, seek her to please alone,
Whom if ye please, I care for other none.


SONNET 9

Ôi, hai con mắt em chứa đầy sức mạnh
Mang đến cho ta niềm vui và cả nỗi buồn
Ta không tìm ra thứ gì ở cõi trần gian
Có ánh sáng như vầy để mà đem so sánh.

Không như mặt trời – mắt bừng khi đêm đến
Chẳng với mặt trăng – mắt chẳng đổi thay gì
Không với sao – mắt trong sạch thế kia
Không với lửa – sáng mà không dữ tợn.

Mắt cương nghị - không như là sét đánh
Chẳng giống kim cương – mắt có vẻ mảnh mai
Không như pha lê – mắt buồn khổ chia hai
Không như kính – chỉ làm cho mắt giận.

Ta đem mắt so với Đấng Toàn Năng
Ánh sáng của Ngài chiếu cả trần gian. 

Sonnet 9

Long-while I sought to what I might compare
Those powrefull eies, which lighte[n] my dark spright,
Yet find I nought on earth to which I dare
Resemble th’ymage of their goodly light.

Not to the Sun: for they doo shine by night;
Nor to the Moone: for they are changed never;
Nor to the Starres: for they have purer sight;
Nor to the fire: for they consume not ever;

Nor to the lightning: for they still persever;
Nor to the Diamond: for they are more tender;
Nor unto Christall: for nought may them seer;
Nor unto glasse: such basenesse mought offend her;

Then to the Maker selfe they likest be,
Whose light doth lighten all that here we see.


SONNET 18

Bánh xe bằng thép khi lăn trên đường
Thì mọi thứ bị bánh xe nghiền nát
Những giọt nước mưa quyện vào với thép
Đá cũng tan tành dưới bánh xe lăn.

Nhưng thép không cứng bằng trái tim em
Cho dù tôi đã rơi nhiều nước mắt
Hay van vỉ cũng không làm mềm được
Rõ một điều em chẳng có lòng thương.

Tôi cầu xin – em bảo tôi đóng vai
Tôi khóc – em bảo nước mắt cá sấu
Tôi thở dài – nghệ thuật này em hiểu
Tôi nức nở –  em bảo thấy nực cười.

Tôi khóc than và cầu xin vô ích
Em vẫn vững như đá, chắc như thép.

Sonnet 18

The rolling wheele that runneth often round,
The hardest steele in tract of time doth teare:
And drizling drops that often doe redound,
The firmest flint doth in continuance weare.

Yet cannot I with many a dropping teare,
And long intreaty soften her hard hart:
That she will once vouchsafe my plaint to heare,
Or looke with pitty on my payneful smart.

But when I pleade, she bids me play my part,
And when I weep, she sayes teares are but water:
And when I sigh, she sayes I know the art,
And when I waile she turnes hir selfe to laughter.

So doe I weepe, and wayle, and pleade in vaine,
Whiles she as steele and flint doth still remayne.


SONNET 19

Chim cúc cu, sứ giả của mùa xuân
Đã cất tiếng hót của mình lanh lảnh
Rằng lúc này tất cả những người tình
Đón chào chúa tể của tình đang đến. 

Tiếng chim hót có vẻ như nói rằng
Tình mang đến cho cuộc đời ánh sáng
Rừng đáp lại lời chim bằng tiếng vọng
Có vẻ như hiểu hết những lời chim.

Nhưng một người đang mang nợ với tình
Trước những lời khen tỏ ra hờ hững
Bờ môi kiêu hãnh của nàng im lặng
Dù tiếng chim mời gọi cũng bằng không.

Hỡi thần tình yêu, khi chim im lặng
Thần hãy gọi nàng là người nổi loạn.

Sonnet 19

The merry Cuckow, messenger of Spring,
His trompet shrill hath thrise already sounded:
that warnes al louers wayt vpon their king,
who now is comming forth with girland crouned.

With noyse whereof the quyre of Byrds resounded
their anthemes sweet devized of loues prayse,
that all the woods theyr ecchoes back rebounded,
as if they knew the meaning of their layes.

But mongst them all, which did Loues honor rayse
no word was heard of her that most it ought,
but she his precept proudly disobayes,
and doth his ydle message set at nought.

Therefore O loue, vnlesse she turne to thee
ere Cuckow end, let her a rebell be.


SONNET 30

Tôi như lửa, còn em – như giá băng
Không hiểu sao lại vô cùng giá lạnh
Làm sao hòa nhập ước mong cháy bỏng
Càng khó khăn lại càng muốn van xin?

Tại vì sao cháy lên ngọn lửa tình
Câu trả lời lạnh lùng tôi không sợ
Nhưng tôi cảm thấy mồ hôi đã đổ
Và ngọn lửa tình cháy mạnh mẽ hơn.

Làm sao có thể nói rằng diệu huyền:
Băng giá càng làm mạnh thêm ngọn lửa
Và ngọn lửa sẽ làm tan băng giá
Còn điều gì có thể diệu kỳ hơn?

Một tình yêu trong tâm trí nhẹ nhàng
Có thể làm cho đổi thay tất cả. 

Sonnet 30

My Love is like to ice, and I to fire:
How comes it then that this her cold so great
Is not dissolved through my so hot desire,
But harder grows the more I her entreat?

Or how comes it that my exceeding heat
Is not allayed by her heart-frozen cold,
But that I burn much more in boiling sweat,
And feel my flames augmented manifold?

What more miraculous thing may be told,
That fire, which all things melts, should harden ice,
And ice, which is congeal’d with senseless cold,
Should kindle fire by wonderful device?

Such is the power of love in gentle mind,
That it can alter all the course of kind.


SONNET 54

Em thân yêu, trong sân khấu cuộc đời
Em cứ việc ngồi xem như khán giả
Anh đang đóng rất nhiều vai trong đó
Chỉ giấu đi những lo lắng mà thôi.

Cũng đôi khi có dịp để anh vui
Anh trong mặt nạ diễn như hài kịch
Sau niềm vui đến nỗi buồn, anh khóc
Biến nỗi đau thành bi kịch em ơi.

Còn em nhìn anh, ánh mắt không rời
Anh buồn vui, khóc cười em mặc kệ
Khi anh cười – đem anh ra chế giễu
Khi anh khóc thì em lại mỉm cười.

Không phân biệt tiếng cười hay giọt lệ
Em không phải đàn bà, em là đá.

Sonnet 54

Of this worlds theatre in which we stay,
My love like the spectator ydly sits
Beholding me that all the pageants play,
Disguysing diversly my troubled wits.

Sometimes I joy when glad occasion fits,
And mask in myrth lyke to a comedy:
Soone after when my joy to sorrow flits,
I waile and make my woes a tragedy.

Yet she, beholding me with constant eye,
Delights not in my merth nor rues my smart:
But when I laugh she mocks, and when I cry
She laughs and hardens evermore her heart.

What then can move her? if nor merth nor mone,
She is no woman, but a senceless stone.


SONNET 62

Năm cũ mệt mỏi kết thúc con đường
Năm mới đến, niềm hân hoan tỏa sáng
Trong buổi sớm mai bằng nhiều hứa hẹn
Với thành công, may mắn, sự yên bình.

Ta cũng vậy, có lẽ là cơ hội
Để mà đổi thay cuộc sống trước đây
Những lỗi lầm trong năm cũ bỏ qua
Quên giận hờn để cuộc đời đổi mới.

Niềm vui năm mới sẽ là mới mẻ
Vẻ rạng ngời xua đuổi thế giới buồn
Sau giông bão sẽ có sự lặng yên
Sự ấm áp cho đời quay trở lại.

Nào Tình yêu, anh và em cũng vậy
Thay nỗi buồn cũ bằng niềm vui mới.

Sonnet 62

The weary Year his Race now having run,
The new begins his compast Course anew:
With shew of Morning mild he hath begun,
Betokening Peace and Plenty to ensew.

So let us, which this chance of Weather view,
Change eke our Minds, and former Lives amend
The old Year's Sins forepast let us eschew,
And fly the Faults with which we did offend.

Then shall the New-Year's Joy forth freshly send,
Into the glooming World his gladsom Ray;
And all these Storms which now his Beauty blend,
Shall turn to Calms, and timely clear away.

So likewise, Love, chear you your heavy Spright,
And change old Year's Annoy, to new Delight.


SONNET 67

Như gã thợ săn sau cuộc truy lùng
Thấy con mồi khắp nơi đều trốn thoát
Đành ngồi nghỉ ở một nơi râm mát
Cùng chó săn thở hổn hển xung quanh.

Sau cuộc truy lùng nhưng chẳng thành công
Khi đó tôi đã vô cùng mệt mỏi
Thì nhìn thấy con nai quay trở lại
Tìm dòng nước, xua cơn khát của mình.

Nai nhìn tôi bằng ánh mắt dịu dàng
Một chút lo, nhưng không hề sợ hãi
Tôi bắt nai, trong tay tôi run rẩy
Vẻ sẵn lòng cho buộc để hiến thân.

Tôi rất vui nhưng thấy cũng lạ lùng
Vì sao nai hoang tự nguyện trao mình.

Sonnet 67

Like as a huntsman after weary chase,
Seeing the game from him escap'd away,
Sits down to rest him in some shady place,
With panting hounds beguiled of their prey:

So after long pursuit and vain assay,
When I all weary had the chase forsook,
The gentle deer return'd the self-same way,
Thinking to quench her thirst at the next brook.

There she beholding me with milder look,
Sought not to fly, but fearless still did bide:
Till I in hand her yet half trembling took,
And with her own goodwill her firmly tied.

Strange thing, me seem'd, to see a beast so wild,
So goodly won, with her own will beguil'd. 



SONNET 68

Lạy Chúa vinh quang nhất! Vào ngày này
Ngài chiến thắng cái chết và tội lỗi
Ngài xuống địa ngục giải thoát những ai
Bị giam cầm nhưng không hề có tội.

Ngày này Chúa ơi bắt đầu niềm vui
Bởi vì chúng con mà Người đã chết
Mọi tội lỗi được máu Người rửa sạch
Có thể sống trong hạnh phúc đời đời!

Kho châu báu – là tình yêu của Người
Chúng con yêu Người và còn yêu nữa
Người đã mua bằng giá cao như thế
Cho chúng con yêu nhau ở trong đời.

Em thân yêu, chúng mình hãy yêu nhau
Như bài học mà Chúa dạy ngày nào.
_________
*Tôn giáo là chủ đề xuyên suốt cả tập thơ nhưng ở bài này có một số ý cần phải giải thích. Cả bài sonnet này dựa trên những lời sau của Chúa Giê-su: “Ta ban cho các người một điều răn mới, nghĩa là các người phải yêu nhau; như ta đã yêu các người thế nào thì các người cũng hãy yêu nhau thế ấy. Giăng 13: 34. 
1) Vào ngày này… Ngày này… – đây chính là ngày Lễ Phục Sinh. 
2) Ngài xuống địa ngục… câu này dựa vào sự tích Chúa Giê-su xuống địa ngục giải thoát những linh hồn ngoan đạo có trong “Kinh Thánh” và đặc biệt cụ thể trong “Thần Khúc”, tất cả đều đã có bằng tiếng Việt. 
3) Mọi tội lỗi được máu Người rửa sạch… Khải Huyền 1: 6: “Đấng yêu thương chúng ta đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta”… 
4) Người đã mua bằng giá cao như thế… Cô-rinh-tô 6: 20: “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi”… 

Sonnet 68

Most glorious Lord of life! that, on this day,
Didst make thy triumph over death and sin;
And, having harrowed hell, didst bring away
Captivity thence captive, us to win:

This joyous day, dear Lord, with joy begin;
And grant that we, for whom thou didest die,
Being with thy dear blood clean washed from sin,
May live for ever in felicity!

And that thy love we weighing worthily,
May likewise love thee for the same again;
And for thy sake, that all like dear didst buy,
With love may one another entertain:

So let us love, dear Love, like as we ought;
Love is the lesson which the Lord us taught.


SONNET 74

Ba chữ cái hạnh phúc và ý nghĩa
Tôi hạnh phúc nhờ ở ba cái tên
Làm cho tôi hạnh phúc gấp ba lần
Bằng thân thể, tài sản và tâm trí. 

Người đầu tiên đã cho tôi cuộc đời
Cuộc đời tôi xuất phát từ lòng mẹ
Người thứ hai – Nữ hoàng ban danh dự
Và người ban sự giàu có cho tôi.

Người thứ ba trang điểm cuộc đời này
Người đã nâng hồn tôi từ cát bụi
Nàng xứng đáng với những lời khen ngợi
Sự tôn vinh, lời cầu nguyện của tôi.

Ba Nữ hoàng sẽ sống mãi muôn đời
Ba ân sủng trời ban tặng cho tôi.
____________
*Ba Nữ hoàng ở đây là Mẹ của nhà thơ, người thứ hai là Nữ hoàng Anh Elizabeth I, người thứ ba là Elizabeth Boyle – người yêu, người mà nhà thơ theo đuổi và sau này trở thành vợ của nhà thơ. 

Sonnet 74

Most happy letters, fram'd by skilful trade,
With which that happy name was first design'd:
The which three times thrice happy hath me made,
With gifts of body, fortune, and of mind.

The first my being to me gave by kind,
From mother's womb deriv'd by due descent,
The second is my sovereign Queen most kind,
That honour and large richesse to me lent.

The third my love, my life's last ornament,
By whom my spirit out of dust was raised:
To speak her praise and glory excellent,
Of all alive most worthy to be praised.

Ye three Elizabeths for ever live,
That three such graces did unto me give.



SONNET 75

Một hôm tôi viết tên em trên cát
Nhưng bỗng nhiên con sóng đến cuốn trôi
Tôi lại viết nó bằng bàn tay khác
Thủy triều lên lại cuốn nỗi đau này.

Em bảo tôi: “Đừng phí sức anh ơi
Biến cái phàm trần trở thành bất tử
Bản thân em là cát bụi mà thôi
Tên em sẽ bị thời gian xóa sổ”.

Tôi trả lời: “Không hẳn đâu em ạ
Thân cát bụi, nhưng mà với cái tên
Trong thơ anh sẽ vẫn còn mãi mãi
Anh viết tên em tận chốn thiên đường.

Ở nơi cái chết trị vì tất cả
Tình vẫn sống và hồi sinh em ạ”.

Sonnet 75

One day I wrote her name upon the strand,
But came the waves and washed it away:
Again I wrote it with a second hand,
But came the tide, and made my pains his prey.

"Vain man," said she, "that dost in vain assay,
A mortal thing so to immortalize;
For I myself shall like to this decay,
And eke my name be wiped out likewise."

"Not so," (quod I) "let baser things devise
To die in dust, but you shall live by fame:
My verse your vertues rare shall eternize,
And in the heavens write your glorious name:

Where whenas death shall all the world subdue,
Our love shall live, and later life renew."


SONNET 79

Mọi người đàn ông đều khen em đẹp
Em tin điều này vì thấy trong gương
Nhưng mà anh lại quan tâm thứ khác:
Là linh hồn và trí tuệ của em.

Bởi tất cả còn lại đều vô thường
Những thứ này đều trở về cát bụi
Sắc đẹp sẽ phai tàn theo thời gian
Nhưng linh hồn thì vẫn còn mãi mãi.

Vẻ đẹp đích thực mà anh muốn nói
Được sinh ra từ hạt giống thiên đàng
Rồi Ngài thổi linh hồn vào trong đấy
Và ra đời từ sáng tạo đầu tiên.

Chỉ vẻ đẹp đích thực do trời sinh
Còn thứ khác, như hoa, sẽ héo tàn.

Sonnet 79

Men call you fair, and you do credit it,
For that yourself ye daily such do see:
But the true fair, that is the gentle wit
And virtuous mind, is much more praised of me:

For all the rest, however fair it be,
Shall turn to naught and lose that glorious hue;
But only that is permanent and free
From frail corruption that doth flesh ensue.

That is true beauty; that doth argue you
To be divine, and born of heavenly seed;
Derived from that fair Spirit from whom all true
And perfect beauty did at first proceed:

He only fair, and what he fair hath made;
All other fair, like flowers, untimely fade.


SONNET 81

Em đẹp lắm mỗi khi mái tóc vàng
Bay lên dập dờn, rung rinh trước gió
Khi bông hồng nở rộ trên đôi má
Và ngọn lửa tình cháy trong mắt em.

Em đẹp lắm, ngực em như con thuyền
Chở đầy châu báu đi về bến cảng
Em đẹp lắm, khi nụ cười tỏa nắng
Nở trên môi xua những đám mây đen.

Nhưng đẹp nhất khi em mở căn phòng
Nơi chứa đầy ngọc trai và đá quí
Khi em nói những lời rất giản dị
Và khôn ngoan đem trải tấm lòng mình.

Còn lại là điều kỳ diệu của thiên nhiên
Tâm hồn em – tuyệt vời nhất trong em.

Sonnet 81

Fair is my love, when her fair golden hears
with the loose wind the waving chance to mark:
fair when the rose in her red cheeks appears,
or in her eyes the fire of love does spark.

Fair when her breast like a rich laden bark
with precious merchandise she forth doth lay:
fair when that cloud of pride, which oft doth dark
her goodly light, with smiles she drives away.

But fairest she, when so she doth display
the gate with pearls and rubies richly dight
through which her words so wise do make their way
to bear the message of her gentle spright.

The rest be works of nature's wonderment,
but this the work of heart's astonishment.


SONNET 88

Kể từ ngày không còn ánh sáng kia
Ý nghĩ của tôi thường xuyên nhầm lẫn
Trong bóng đêm dày tôi thường thơ thẩn
Tôi lo âu, sợ những thứ bất kỳ.

Giữa thanh thiên bạch nhật chẳng thấy gì
Khi người khác không cần nhìn bóng tối
Nhưng chỉ hình bóng từ thiên đường kia
Trong mắt tôi hình bóng này run rẩy.

Và tôi thấy ý tưởng rõ ràng hơn
Linh hồn trong sáng của tôi chiêm ngưỡng
Thứ ánh sáng vẫn cho tôi sức mạnh
Cho con tim thỏa cơn đói vì tình.

Nhưng khi tâm trí lấp đầy ánh sáng
Tôi lại bị đói và mắt mù quáng.

Sonnet 88

SINCE I have lacked the comfort of that light,
The which was wont to lead my thoughts astray:
I wander as in darkness of the night,
afraid of every danger's least dismay.

Ne aught I see, though in the clearest day,
when others gaze upon their shadows vain:
but th' only image of that heavenly ray,
whereof some glance doth in mine eye remain.

Of which beholding the Idea plain,
through contemplation of my purest part:
with light thereof I do my self sustain,
and thereon feed my love-affamished heart.

But with such brightness whilst I fill my mind,
I starve my body and mine eyes do blind. 


SONNET 89

Như con bồ câu trên cành trơ trụi
Khóc cho bồ câu yêu quí của mình
Trong lời ca nguyện cầu chim trở lại
Nghe từ xa tiếng gọi của linh hồn.

Tôi cũng cô đơn một mình như vậy
Tôi đau buồn vì người đã ra đi
Tôi lang thang, đó đây đều trống trải
Cảm thấy mình sao giống với chim kia.

Không niềm vui nào ở chốn trần gian
An ủi tôi – chỉ ánh mắt hiền dịu
Với sự tỏa sáng từ chốn thiên đường
Cả phàm nhân, Thiên Chúa đều ngưỡng mộ.

Ngày của tôi tối tăm, không ánh sáng
Không có em – đời tôi trong vải liệm.

Sonnet 89

Like as the culver, on the bared bough,
Sits mourning for the absence of her mate;
And, in her songs, sends many a wishful vow
For his return that seems to linger late:

So I alone, now left disconsolate,
Mourn to myself the absence of my love;
And, wandering here and there all desolate,
Seek with my plaints to match that mournful dove

No joy of aught that under heaven doth hove,
Can comfort me, but her own joyous sight
Whose sweet aspect both God and man can move,
In her unspotted pleasance to delight.

Dark is my day, whiles her fair light I miss,
And dead my life that wants such lively bliss.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét