Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

Thơ tình T. S. Eliot


BẢN TÌNH CA CỦA J. ALFRED PRUFROCK(1)

S’io credesse che mia risposta fosse
A persona che mai tornasse al mondo,
Questa fiamma staria senza piu scosse.

Ma perciocche giammai di questo fondo
Non torno vivo alcun, s’i’odo il vero,
Senza tema d’infamia ti rispondo.


Nào, ta hãy lên đường, anh và em
Trong buổi chiều lặng lẽ, dịu êm
Như người bệnh đang nằm trên bàn mổ
Ta hãy đi theo từng con phố nhỏ
Nơi vỏ sò chất đống ngổn ngang
ở nơi đó những quán rượu rẻ tiền
Những phòng trọ cho những đêm không ngủ
Đường phố dẫn vào cuộc tranh chấp, cãi cọ
Dẫn ta đến tận nơi
Và cho em, một câu hỏi chết người
Em đừng hỏi rằng “điều gì thế”
Nào, ta hãy đi về nơi đó.

Trong phòng khách những người phụ nữ chuyện trò
Họ nói chuyện về Michelangelo(2).

Sương màu vàng kì cọ trên mặt kính
Khói màu vàng chạm vào trên mặt kính
Liếm vào mọi góc của buổi hoàng hôn
Bám vào những rãnh mương
Trải lên ống khói
Trên bậc thềm bay nhảy
Nhìn thấy buổi chiều tháng Mười dịu êm
Và ngôi nhà đang ngủ im lìm.

Rồi đây, sẽ đến một thời gian
Trên đường phố làn khói màu vàng
Sẽ chùi lên mặt kính
Rồi sẽ đến một thời gian
Đối mặt phải sẵn sàng
Thời giết chóc và tạo dựng
Thời cho lao động
Câu hỏi này bày trên đĩa của em
Thời cho em và cho anh
Thời của một trăm điều do dự
Một trăm cái nhìn ra và sửa chữa
Khi cầm lấy cốc trà.

Trong phòng khách những người phụ nữ chuyện trò
Họ nói chuyện về Michelangelo.

Quả là sẽ đến một thời gian
Khi ngạc nhiên rằng “Không lẽ ta đã dám?”
Còn thời gian bước xuống bậc thang
Thời gian rảo bước trên mái tóc anh
(Thiên hạ sẽ nói rằng: “Đầu hắn ta đã bạc!”)
Chiếc áo khoác của anh cổ cồn cứng nhắc
Chiếc ca-ra-vát của anh có hình dáng giản đơn
(Thiên hạ sẽ nói rằng: “Hắn đã yếu tay chân!”)
Chẳng lẽ anh đã dám
Làm cho vũ trụ này lo lắng?
Mỗi phút – là thời gian
Để quyết định, nghi ngờ hay lật ngược hoàn toàn.

Điều này anh đã biết từ xưa
Những buổi chiều, những buổi sớm, buổi trưa
Cuộc đời mình anh dùng thìa cà phê đo đếm
Anh nghe những giọng hát từ đâu xa lắm
Nơi mà người ta theo nhạc hát lên
Là bởi vì anh đã dám?

Những điều này từ lâu anh đã biết
Những đôi mắt gắn anh vào công thức
Dán nhãn gim trên tường
Anh nằm trong đó thở than
Và anh bắt đầu
Khạc nhổ từ đầu ghép hai mảnh ván
Chẳng lẽ là anh lại dám?

Và những bàn tay này anh đã biết từ xưa
Những bàn tay đeo vòng, trắng và trọc lóc
Dưới ánh sáng ngọn đèn, có màu nâu mái tóc
Mà cũng có thể là
Mùi nước hoa từ quần áo tỏa ra?
Những bàn tay khăn quàng đem quấn
Chẳng lẽ là anh lại dám?
Và làm sao anh có thể bắt đầu?
………………………………….

Buổi hoàng hôn anh thơ thẩn trên những đường phố nhỏ
Và nhìn khói toả ra từ những ngôi nhà
Của những người cô đơn cúi mình bên cửa sổ?..

Ôi giá mà anh là hai càng cua bờm xờm
Chạy trốn vào trong đáy biển lặng im!
…………………………………….

Và buổi chiều đi vào đêm rồi êm đềm ngủ
Những bàn tay ấp ủ
Mệt mỏi… ngủ say… hay chỉ giả vờ
Ngủ say sưa ở dưới chân ta.
Có thể, sau khi uống trà và ăn bánh ngọt
Không cần đi vào những miền không thể biết?
Nhưng anh đã khóc, ăn chay, đã khóc và nguyện cầu
Và anh nhìn thấy trên mặt đĩa phẳng mái đầu.
Anh không phải nhà tiên tri – và đây không phải là điều gì vĩ đại
Anh nhìn thấy một lần và trước mặt anh lửa cháy
Một Người hầu(3) mặc áo khoác của anh và khúc khích cười
Nói tóm lại là anh đã thôi.

Và liệu có cần gì cho anh, sau tất cả
Sau bánh ngọt, cốc trà, trong lặng lẽ
Nói một điều gì đó về em và anh
Liệu có cần thiết chăng?
Với nụ cười rũ bỏ điều cấm đoán
Ôm cả hoàn cầu trong lòng im lặng
Và xoay quả đất với câu hỏi chết người
Rằng: “Ta là Lazarus từ cõi chết trở về đây
Ta quay trở về để nói ra tất cả” –
Nếu ai đó cái gối trên đầu đã sửa
Và nói rằng: “Không phải thế đâu
Tất cả đều không phải thế”.

Thì anh có cần gì sau đó
Thì anh còn cần thêm gì nữa
Sau những buổi hoàng hôn, sân trước và những đường phố mưa giăng
Sau ấm chén, sách vở, váy áo rải trên sàn
Và điều này, và hơn thế nữa?
Anh cứ ngỡ rằng lời chẳng có
Nhưng giống như khuôn mẫu trên màn hình
Thì liệu có còn cần thiết cho anh
Nếu như ai đó sửa lại khăn và gối
Và quay nhìn vào cửa sổ rồi nói:
“Tất cả không phải thế đâu
Tất cả đều không phải thế”.
……………………………..

Không! Anh không phải là Hamlet và không thể trở thành
Anh chỉ là người hầu, những kẻ ở xung quanh
Là kẻ bị người ta đẩy ra sân khấu
Rồi khuyên bảo phải thế này thế nọ
Người được tôn kính và rất sẵn lòng
Người cẩn trọng và khôn ngoan
Người cao sang nhưng hơi đần một chút
Theo thời gian có lẽ thành lố bịch
Theo thời gian thành kẻ pha trò.

Anh ngày một già thêm
Có lẽ anh phải xắn quần lên.

Liệu anh còn được ăn quả đào? Còn chải tóc trên trán?
Còn đi ra biển mặc quần màu trắng.
Và anh nghe những nàng tiên cá hát vang lên.

Nhưng bài hát này không phải để cho anh.

Anh thấy những nàng tiên cá bơi trên sóng biển
Những con sóng vuốt ve làn tóc trắng
Khi ngọn gió rì rào trên mặt nước trắng và đen.

Ta lang thang trong xứ sở của tiên
Nghe giọng nói của người trần và ta nức nở
Giọng nói gọi ta trở về trần thế, và ta chìm.
_____________
CHÚ THÍCH

(1)Eliot viết bài thơ này năm 1910, khi đang còn là sinh viên Đại học Harvard, viết xong năm 1911. Bốn năm sau đăng ở tạp chí Poetry (June 1915). Sau đó in trong tập thơ đầu tiên Prufrock and Other Observations (1917). Đề từ của bài thơ này trích từ Thần khúc của Dante:

Giá tôi biết rằng câu chuyện của mình
Nghe thấy được người còn quay trở lại
Thì ngọn lửa của tôi đã không run.

Nhưng bởi vì không còn đường trở lại
Tôi chưa từng nghe chuyện ấy bao giờ
Nên tôi trả lời, xấu hổ chi mà ngại.
(Thần khúc_Địa ngục, khúc ca XXVII, dòng 61-66)

Ý nghĩa của những dòng thơ này như sau: giá như nhân vật tin chắc rằng câu chuyện của anh ta có ai đó nghe được và sau này quay trở lại trần gian kể cho mọi người những điều đã nghe thì anh ta đã chẳng nói ra. Điều đó có nghĩa là Bản tình ca… của Eliot không ca lên cho tất cả cùng nghe. Đọc bài thơ đến hết ta sẽ hiểu ra rằng Prufrock không hề yêu ai cả - ít ra là trong trường hợp Bản tình ca… này, không yêu một người phụ nữ nào trong những lời độc thoại của mình. “Em và anh” ở đây là Prufrock tự nói với chính mình đấy thôi, còn những người phụ nữ thì chỉ chuyện trò về Michelangelo. Đây là bài ca tình yêu thời hiện đại của chàng sinh viên Đại học Harvard, nếu có thể gọi đấy là tình yêu.
Prufrock, một mặt nào đó cũng giống như Hamlet với “to be, or not to be”(nên hay không nên), rất thận trọng và lưỡng lự, chàng cứ sợ rằng sau lời tỏ tình của mình thì cả thế giới này sẽ sụp đổ. Mặt khác, không biết liệu có nên làm cho thế gian phiền muộn hay không, nếu như đằng nào thì người đời cũng không nghe, không hiểu mình? Và, ngay cả nếu được như Lazarus (La-xa-rơ: Tân Ước_Giăng11: 43,44) từ cõi chết trở về muốn kể lại những điều về cuộc sống, cái chết thì cũng chẳng ai thèm nghe: những người phụ nữ trong phòng khách kia chỉ quan tâm những điều mà họ muốn nói. Thì khi ấy mong ước được trở thành “hai càng cua bờm xờm/ chạy trốn vào trong đáy biển lặng im…” Chủ đề của Bản tình ca… là không yêu được. Từ không yêu được đến không sống được cũng chẳng xa xôi gì, bởi thế ở đoạn cuối ta thấy xuất hiện các nàng tiên cá (các nàng tiên cá tượng trưng cho vẻ đẹp chết người, vẻ quyến rũ của phụ nữ) và bài thơ kết thúc bằng lời “ta chìm” (we drown).
(2)Michelangelo Buonarroti (1475-1564) – nhà điêu khắc, họa sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ Italia thời Phục hưng.
(3)Người hầu (the eternal Footman) – ở đây có nghĩa là cái chết, luôn luôn chuẩn bị bộ quần áo cuối cùng cho con người - áo quan.



ĐẤT HOANG

"Nam Sibyllam quidem Cumis ego ipse
oculis meis vidi in ampulla pendere, et cum
illi pueri dicerent: Σίβυλλα τί θέλεις;
respondebat ilia: άποθανείν θελω".
(Tôi từng nhìn thấy Xibila ở Cumai ngồi trong chai.
Khi bọn trẻ hỏi: “Bà muốn gì, Xibila?”
Xibila trả lời: “Muốn chết” (tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp cổ).


Tặng Ezra Pound
il miglior fabbro.
(bậc thầy cao hơn tôi (tiếng Italia)(1).

I. Lễ mai táng người chết

Tháng tư là tháng khắc nghiệt, gây ra
Màu tím tử đinh hương của đất, rồi hòa
Ký ức với ước mong, và gây xúc động
Nguồn cội mơ màng bằng mưa xuân trút xuống.
Mùa đông sưởi ấm lòng ta
Chở che mặt đất bằng tuyết dày quên lãng
Nuôi cuộc đời bằng những cọng cây khô.
Mùa hè đến bất chợt trên hồ Starnbergersee(2)
Với những cơn mưa, chúng em dừng chân bên dãy cột to
Sau đó đi về Hofgarten trong ánh nắng
Chúng em uống cà phê và suốt cả giờ trò chuyện.
Bin gar keine Russin, stamm’ aus Litauen, echt deutsch.
(Em không phải người Nga, sinh ở Lít-va, là người Đức chính cống)
Ngày còn bé chúng em thường đến chơi với người anh
Hoàng tử Áo – anh ấy rủ em đi xe trượt tuyết
Thấy em sợ hãi thì anh ấy động viên:
Marie, em giữ cho chắc vào. Ta bắt đầu đầu trượt.
Giữa núi đồi sẽ thanh thoát nhẹ nhàng.
Em đọc sách ban đêm và đi về phương Nam mùa đông.

Rễ nào bám vào, cành nào mọc lên
Từ đá vỡ này? Con người trần(3)
Không thể nói ra, ước chừng, vì chỉ biết
Một đống hình vỡ, nơi ánh mặt trời đập
Cây chết không cho bóng, cào cào chẳng làm khuây(4)
Đá khô không có nước, mà chỉ có ở đây
Chiếc bóng của loài đá đỏ(5)
(Hãy đứng dưới bóng của loài đá đó)
Và em sẽ chỉ cho anh một cái gì đó
Không như cái bóng người buổi sáng ở sau lưng
Hay cái bóng buổi chiều ở trước mặt anh
Em sẽ chỉ ra trong một nắm tro tàn sợ hãi.
Frisch weht der Wind(6)
Der Heimat zu.
Mein Irsch Kind
Wo weilest du?
(Mát lành cơn gió thổi
Gió thổi về quê hương.
Em nơi mô chờ đợi
Hở cô bé Ai-len?)
“Năm ngoái người trao em hyacinths(7) lần đầu tiên
Người ta gọi em là lan dạ hương thiếu nữ”.
– Nhưng khi ta trở về từ vườn Hyacinth đó
Tay em đầy hoa và mái tóc đầy sương
Anh không nói nên lời, đôi mắt anh mơ màng
Dở sống, dở chết, anh không biết gì hết cả
Anh nhìn vào con tim ánh sáng – và lặng lẽ
Od’ und leer das Meer(8).
(Biển hoang vu, vời vợi, triền miên).

Bà Sosostris(9) nhìn thấu được cả những cái vô hình
Dù bà có bị cảm lạnh nhưng mà vẫn
Nổi tiếng khắp châu Âu là người đoán đúng
Với một cỗ bài. Bà nói: con bài của anh kia
Người thủy thủ bị chìm của xứ Phê-ni-xi(10).
(Hãy xem kìa: đôi mắt như ngọc châu lấp lóa)
Còn đây là Belladonna(11), bà chúa tể của bao vách đá
Bà chủ của những tình thế nọ kia.
Người đàn ông với ba cây gậy, và đây bánh xe
Còn đây là nhà thương gia một mắt
Quân này trống, có vật gì trên lưng được đặt
Thì ta chẳng nhìn ra. Không nhận ra
Người treo cổ. Hãy coi chừng chết đuối.
Ta thấy một đoàn người đi quanh vòng ấy.
Cám ơn. Nếu anh nhìn thấy ngài Equitone(12)
Thì nói rằng lá số ta mang đến cho ông
Thời buổi này hãy nhớ dè chừng, cẩn thận.

Thành phố có vẻ như trong tưởng tượng
Dưới làn sương mù của buổi sáng mùa đông
Người ta chen chúc nhau trên cầu Luân Đôn
Tôi đã không nghĩ rằng thần chết bắt nhiều người ghê gớm(13).
Những tiếng thở dài trong không trung hiếm hoi và ngắn(14)
Và mỗi người đều đưa mắt nhìn xuống bàn chân.
Đi lên đồi và đi xuống phố King William(15)
Nơi đồng hồ chuông Saint Mary Woolnoth buông xuống
Âm thanh chết của giờ thứ chín.
Tôi nhìn thấy một người quen và tôi gọi: “Stetson!
Có phải ta đã cùng chiến đấu trên tàu ở Mylae(16) không?
Cái xác mà anh chôn ở trong vườn năm ngoái
Có xanh tốt? Có nở hoa, kết trái?
Có sống qua được băng giá của đời?
Hãy tránh xa chó, chó không hẳn là bạn của người
Kẻo nó dùng móng chân của mình đào bới lại!(17)
Anh! Hypocrite lecteur! – mon semblable, – mon frere!”(18)
(Anh! Bạn đọc đạo đức giả! – người giống tôi, – người anh em của tôi!)
___________
CHÚ THÍCH

Trường ca “Đất hoang” in lần đầu ở tạp chí Criterion (London) tháng 10 – 1922. “Đất hoang” là biểu tượng của châu Âu sau chiến tranh thế giới I, khủng hoảng tinh thần, thiếu lòng tin… Tuy vậy ẩn ý của trường ca là những cuộc truy tìm chiếc Chén Thần (Holy Grail), chiếc chén mà Chúa Giê-su đã uống trong bữa ăn cuối cùng. Eliot lên hệ với truyền thuyết trong tác phẩm “Cành vàng” của J. Fraser. Vua Cá (Fisher King – biểu tượng của cuộc sống) bị làm bùa phép và bị giết, mặt đất trở thành đất hoang. Chàng hoàng tử Perceval (Percyvelle) giải thoát được cho nhà vua bằng cách vượt qua nhiều thử thách tìm đến Nhà Nguyện để nhận biết những nghi lễ của Chén Thần… Eliot thường xuyên so sánh, đối chiếu hiện tại với quá khứ.
Trường ca có 5 phần. Chúng tôi trích dịch phần I – là phần nổi tiếng nhất, thường được đưa vào các tuyển tập. Trong các tác phẩm của mình, Eliot dùng tiếng Anh xen lẫn với tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Italia, tiếng Hy Lạp cổ… Trung thành với nguyên tác chúng tôi dịch phần tiếng Anh còn các ngôn ngữ khác để nguyên như trong nguyên tác và thêm phần tiếng Việt trong dấu mở, đóng ngoặc.

(1)Đề từ của trường ca lấy từ tác phẩm Satyricon (chương 48) của nhà văn La Mã Arbite (Gaius) Petronius (? – 66). Xibila ở Cumai (the Cumaean sibyl) xin thần Apollo cho một cuộc sống vĩnh cửu nhưng quên xin một tuổi trẻ vĩnh cửu. Cơ thể của Xibila nhăn nheo, teo tóp bỏ được vào trong chai. Trong “Đất hoang” Xibila trở thành bà Sosostris, là người giống như nhà tiên tri mù Tiresias trong thần thoại Hy Lạp. Theo thần thoại Hy Lạp, Tiresias biến thành phụ nữ trong bảy năm rồi lại trở về làm đàn ông, sau đó trở thành người trọng tài trong cuộc tranh luận giữa các vị thần (Zeus và Hera): Ai là người nhận được nhiều hơn khoái cảm của tình yêu – đàn ông hay phụ nữ? Khoái cảm của phụ nữ mạnh hơn khoái cảm của đàn ông gấp chín lần – kết luận của Tiresias. Vì điều kết luận này mà nữ thần Hera tức giận, đã làm cho Tiresias trở thành mù nhưng được thần Zeus ban cho một cuộc sống trường thọ.

Bậc thầy cao hơn tôi (il migllior fabbro) – đây là câu trả lời của Guido Guinizelli nói về A. Daniel trong những lời trò chuyện với Dante. (Dante. Tĩnh ngục, XXVI, 112-118).
(2)Starnbergersee – hồ nước ở gần Munchen (Munich). Hofgarten là tên một công viên.
(3)Xem: Cựu ước_Ê-xê-chi-ên 2:1 (chú thích của Eliot): Hỡi con người, chân ngươi hãy đứng, ta sẽ phán cùng ngươi. ở chương 37:3 Chúa hỏi Ê-xê-chi-ên: Hỡi con người, những hài cốt này có thể sống chăng? Và Ê-xê-chi-ên trả lời: Lạy Chúa Giê-hô-va, chính Chúa biết điều đó!
(4)Xem: Cựu ước_Truyền đạo 12:5 (chú thích của Eliot), nơi người truyền đạo nói về những ngày gian nan, khó nhọc:
Lúc ấy người ta sợ hãi lên cao
Đi trên đường sẽ vô cùng khiếp sợ
Và sẽ trổ bông những khóm hạnh đào
Cào cào nặng, ước ao không còn nữa.
(5)Xem: Cựu ước_Ê-sai 32:2: Sẽ có một người như nơi núp gió và chỗ che bão táp, như suối nước trong nơi đất khô, như bóng vầng đá lớn trong xứ mòn mỏi.
(6)Mát lành cơn gió thổi... lời thơ trích từ vở nhạc kịch câu chuyện tình “Tristan und Isolt” (Trixtăng và Iđơn, tiếng Đức) của Richard Wagne (1813-1883).
(7)Hyacinth – theo thần thoại Hy Lạp là một chàng trai trẻ đẹp. Sau khi Hyacinth chết thần Apollo lấy xác của hyacinth gieo thành loài hoa lan dạ hương.
(8)Biển hoang vu… tiếng kêu của người đầy tớ mà vua Mác sai đi nhìn ra biển xem có thấy con tàu chở Iđơn.
(9)Thầy bói có tên một Pharaon Ai Cập, Eliot lấy từ một bi kịch của A. Huxley.
(10)Xứ Phê-ni-xi (Phoenicia) – quốc gia cổ đại ở vùng biển Địa Trung Hải.
(11) Belladonna – tên Italia của một quân bài.
(12) Equitone – cũng là tên một trong các quân bài.
(13)Xem: Dante. Địa ngục, III, 55-57 (chú thích của Eliot):
Cuốn theo sau một đoàn người dằng dặc
Đông đến mức tôi không thể nào tin được
Rằng thần chết đã nhanh tay như thế!
(Nguyễn Văn Hoàn dịch, nxb KHXH. H., 2005).
(14)Xem: Dante. Địa ngục, IV, 25-27 (chú thích của Eliot):
Ở đó những gì mà tôi nghe được
Không phải tiếng kêu van mà là tiếng thở dài
Làm xáo động cả bầu không khí.
(Nguyễn Văn Hoàn dịch, nxb KHXH. H., 2005).
(15)Đồng hồ chuông của nhà thờ Saint Mary Woolnoth trên phố King William là nơi Eliot thường qua lại khi sống ở Luân Đôn. Để đi đến khu trung tâm tài chính của Luân Đôn (City) cần đi qua cầu Luân Đôn sang bờ bên kia của sông Thames.
(16)Trận đánh Mylae (Battle of Mylae) trong chiến tranh Punic giữa người Roma và người Carthaganian năm 260 – 146 tr. CN.
(17)Eliot dẫn John Webster (1580-1625), tác giả của bi kịch “Con quỉ trắng” (The White Devil, 1612) “Hãy đuổi chó sói/ Kẻ thù của con người/ Để nó không dùng móng chân đào xác chết”. Đây là tiếng khóc của một phụ nữ có đứa con trai đã giết người anh em của mình rồi đào mồ chôn người anh em bị giết.
(18)Đây là một câu trong “Những bông hoa ác” (Les fleurs du mal) của Charles Baudelaire (1821- 1867).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét