Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

Thơ tình Omar Khayyam


RUBÁIYÁT
OF
OMAR KHAYYÁM
.

I.
Awake! for Morning in the Bowl of Night
Has flung the Stone that puts the Stars to Flight:
And Lo! the Hunter of the East has caught
The Sultán’s Turret in a Noose of Light.
*
Dậy! Buổi sáng ném Đá vào Chén của Đêm
Đá đuổi Sao Di chuyển. Và hãy nhìn!
Người đi săn của Phương Đông cài bẫy
Tháp của Vua trong Thòng lọng Bình minh.


II.
Dreaming when Dawn’s Left Hand was in the Sky,
I heard a Voice within the Tavern cry,
“Awake, my Little ones, and fill the Cup
Before Life’s Liquor in its Cup be dry.”
*
Khi Tay Trái Bình minh giữa Trời xanh
Ta mơ màng nghe từ Quán rượu kêu lên:
“Dậy, các Con, dậy rót cho đầy Chén
Trước khi Rượu Đời khô trong Chén của mình”.


III.
And, as the Cock crew, those who stood before
The Tavern shouted—“Open then the Door!
You know how little while we have to stay,
And, once departed, may return no more.”
*
Gà gáy sáng, người ta kêu trước cửa
Của Quán rượu rằng: “Hãy mau mở Cửa!
Ngươi có biết, đời ngắn ngủi lắm thay
Một lần đi, không còn quay về nữa”.


IV.
Now the New Year reviving old Desires,
The thoughtful Soul to Solitude retires,
Where the White Hand of Moses on the Bough
Puts out, and Jesus from the Ground suspires.
*
Năm Mới hồi sinh Lòng khát khao xưa cũ
Hồn đầy ý nghĩ đi về nơi Vắng vẻ
Nơi giơ ra Bàn tay Trắng của Mose
Nghe từ dưới Đất tiếng thở dài của Chúa.
 

V.
Irám indeed is gone with all its Rose,
And Jamshýd’s Sev’n-ring’d Cup where no one knows:
But still the Vine her ancient Ruby yields,
And still a Garden by the Water blows.
*
Irám quả là biến mất với Hoa hồng
Chén Jamshýd ở đâu, có ai biết chăng
Nhưng Nho còn cho màu Hồng xưa cũ
Và bên Sông vẫn tươi tốt khu Vườn.


VI.
And David’s Lips are lockt; but in divine
High-piping Péhlevi, with “Wine! Wine! Wine!
Red Wine!”—the Nightingale cries to the Rose
That yellow Cheek of hers to incarnadine.
*
Trên môi David còn dấu, nhưng giọng thánh thần
Của Péhlevi – Họa mi gọi Hoa hồng:
“Rượu! Rượu! Rượu vang đỏ!” để gợi
Màu hồng tươi trên đôi Má màu vàng.


VII.
Come, fill the Cup, and in the Fire of Spring
The Winter Garment of Repentance fling:
The Bird of Time has but a little way
To fly—and Lo! the Bird is on the Wing.
*
Ngươi hãy đến và rót cho đầy Chén
Và hãy ném vào ngọn Lửa của mùa Xuân
Áo quần mùa Đông của sự ăn năn
Con chim Thời gian đã vẫy vùng đôi Cánh.


VIII.
And look—a thousand blossoms with the Day
Woke—and a thousand scatter’d into Clay:
And this first Summer Month that brings the Rose
Shall take Jamshýd and Kaikobád away.
*
Ngày đến với cả ngàn hoa – hãy xem
Cả một nghìn đã tan vào Đất sét
Tháng đầu Hè mang đến những bông Hồng
Nở hoa xa Jamshýd và Kaikobád.


IX.
But come with old Khayyám and leave the Lot
Of Kaikobád and Kaikhosrú forgot:
Let Rustum lay about him as he will,
Or Hátim Tai cry Supper—heed them not.
*
Với Khayyam già, quên đi Số kiếp
Của Kaikhosrú và Kaikobád
Và Rustum cứ để cho mặc lòng
Hay Hátim Tai gọi ăn trưa – cứ mặc.

X.
With me along some Strip of Herbage strown
That just divides the desert from the sown,
Where name of Slave and Sultán scarce is known,
And pity Sultán Máhmúd on his Throne.
*
Đi cùng ta, theo lối Cỏ Hoa xanh
Để cách ngăn sa mạc với đồng bằng
Nơi không cần Đế vương hay Nô lệ
Thương Vua Máhmúd ngự trên Ngai vàng.


XI.
Here with a Loaf of Bread beneath the Bough,
A Flask of Wine, a Book of Verse—and Thou
Beside me singing in the Wilderness—
And Wilderness is Paradise enow.
*
Ở nơi đây dưới bóng lá bóng Cành
Với Bánh, Rượu, Quyển sách Thơ – và Em
Hát bên anh, thì dù cho Sa mạc
Đối với anh cũng vẫn cứ Thiên đàng.


XII.
“How sweet is mortal Sovranty”—think some:
Others—“How blest the Paradise to come!”
Ah, take the Cash in hand and waive the Rest;
Oh, the brave Music of a distant Drum!
*
Ai đấy nghĩ: “Thật sung sướng cõi trần!”
Còn ai: “Hạnh phúc được đến Thiên đàng!”
Ta cứ giữ Hầu bao và quên hết
Có khác gì tiếng Trống cõi xa xăm!


XIII.
Look to the Rose that blows about us—“Lo,
Laughing,” she says, “into the World I blow:
At once the silken Tassel of my Purse
Tear, and its Treasure on the Garden throw.”
*
Hãy nhìn xem, hoa Hồng nở xung quanh
Hoa cười, nói: Ta đến cõi Trần gian
Rồi phút giây Kho báu từ tơ lụa
Bỗng tan ra rải rác khắp cả Vườn”.


XIV.
The Worldly Hope men set their Hearts upon
Turns Ashes—or it prospers; and anon,
Like Snow upon the Desert’s dusty Face
Lighting a little Hour or two—is gone.
*
Hy vọng Trần gian trong trái Tim người
Thành Tro bụi, hoặc tan biến ngay thôi
Như Tuyết trên gương Mặt hồng Sa mạc
Một hai Giờ, rồi sẽ biến mất ngay.

XV.
And those who husbanded the Golden Grain,
And those who flung it to the Winds like Rain,
Alike to no such aureate Earth are turn’d
As, buried once, Men want dug up again.
*
Và ai người gìn giữ Bông lúa Vàng
Ai người ném ra Gió, như Mưa giông
Về với Đất, không còn như vàng bạc
Đã chôn rồi, Thiên hạ chẳng đào lên.


XVI.
Think, in this batter’d Caravanserai
Whose Doorways are alternate Night and Day,
How Sultán after Sultán with his Pomp
Abode his Hour or two and went his way.
*
Hãy nghĩ xem, trong cái Lễ hội này
Liên tục đổi thay, hết Đêm đến Ngày
Vua tiếp Vua, trong cái vòng xoay ấy
Một hai Giờ rồi lại biến mất ngay.


XVII.
They say the Lion and the Lizard keep
The Courts where Jamshýd gloried and drank deep:
And Bahrám, that great Hunter—the Wild Ass
Stamps o’er his Head, and he lies fast asleep.
*
Nghe nói Thằn lằn với Sư tử đâu
Giữ Cung điện, nơi Jamshýd uống rượu lâu
Và Bahrám, Người đi săn vĩ đại
Ngủ say, trong khi Lừa Hoang đạp trên Đầu.


XVIII.
I sometimes think that never blows so red
The Rose as where some buried Cæsar bled;
That every Hyacinth the Garden wears
Dropt in its Lap from some once lovely Head.
*
Đôi khi ta nghĩ rằng không có hoa đỏ hơn
Hoa Hồng ở nơi chôn ông Vua vĩ đại
Và mỗi bông Lan dạ hương trong vườn
Mọc ra từ Đầu người yêu nào đấy.


XIX.
And this delightful Herb whose tender Green
Fledges the River’s Lip on which we lean—
Ah, lean upon it lightly! for who knows
From what once lovely Lip it springs unseen!
*
Hoa cỏ tuyệt đẹp, Màu xanh dịu dàng
Trải khắp Bờ Sông, nơi ta nằm lên
Hãy nhẹ nhàng, vì rằng ai biết được
Từ bờ Môi yêu dấu, cỏ hồi sinh.


XX.
Ah, my Belovéd, fill the cup that clears
To-day of past Regrets and future Fears—
To-morrow?—Why, To-morrow I may be
Myself with Yesterday’s Sev’n Thousand Years.
*
Em cứ rót rượu cho đầy, để rửa
Nỗi sợ tương lai, Tiếc thương quá khứ
Còn Ngày mai? Tại sao, trong Ngày mai
Anh đã cùng Bảy Nghìn năm Hôm qua đó.


XXI.
Lo! some we loved, the loveliest and the best
That Time and Fate of all their Vintage prest,
Have drunk their Cup a Round or two before,
And one by one crept silently to Rest.
*
Hãy xem! Người ta yêu, những gì tốt nhất
Mà Số phận và Thời gian từ Nho đã ép
Họ uống Chén mình một hai lượt trước đây
Rồi theo nhau về Ngủ yên dưới đất.


XXII.
And we, that now make merry in the Room
They left, and Summer dresses in new Bloom,
Ourselves must we beneath the Couch of Earth
Descend, ourselves to make a Couch—for whom?
*
Giờ ta đang vui vẻ trong phòng này
Họ bỏ lại, Hè trải ra Hoa mới
Ta rồi phải xuống dưới Giường Đất ấy
Và sẽ thành Giường – là để cho ai?


XXIII.
Ah, make the most of what we yet may spend,
Before we too into the Dust descend;
Dust into Dust, and under Dust, to lie,
Sans Wine, sans Song, sans Singer, and—sans End!
*
Tìm lấy điều gì đấy tốt cho ta
Bởi rồi đây Cát bụi cả thôi mà
Thành Cát bụi ta nằm trong Cát bụi
Chẳng Cuối cùng, chẳng Rượu, chẳng Bài ca.


XXIV.
Alike for those who for To-day prepare,
And those that after a To-morrow stare,
A Muezzín from the Tower of Darkness cries,
“Fools! your Reward is neither Here nor There!”
*
Với những người chỉ sống ngày Hôm nay
Và những người chỉ sống với Ngày mai
Ông Muezzín kêu lên từ Tháp Tối:
“Đừng ngóng trông chi nơi Nọ, nơi Này!”

XXV.
Why, all the Saints and Sages who discuss’d
Of the Two Worlds so learnedly, are thrust
Like foolish Prophets forth; their Words to Scorn
Are scatter’d, and their Mouths are stopt with Dust.
*
Những Thánh thần và những nhà Thông thái
Từng tranh luận về chuyện Hai Thế giới
Những lời Tiên tri dại dột bị khinh thường
Miệng họ đã im, tất cả về Cát bụi.

XXVI.
Oh, come with old Khayyám, and leave the Wise
To talk; one thing is certain, that Life flies;
One thing is certain, and the Rest is Lies;
The Flower that once has blown for ever dies.
*
Theo Khayyam già, Khôn ngoan bỏ lại
Chỉ có một điều: Cuộc đời đi mãi
Chỉ có một điều: Hoa nở một lần
Rồi tàn lụi, còn lại đều Gian dối.


XXVII.
Myself when young did eagerly frequent
Doctor and Saint, and heard great Argument
About it and about: but evermore
Came out by the same Door as in I went.
*
Thời tuổi trẻ, ta sung sướng biết bao
Nghe theo Thầy, theo Thánh được rất lâu
Họ tranh luận về chuyện này chuyện khác
Nhưng luôn ra theo cánh Cửa khi vào.


XXVIII.
With them the Seed of Wisdom did I sow,
And with my own hand labour’d it to grow:
And this was all the Harvest that I reap’d—
“I came like Water, and like Wind I go.”
*
Cùng với họ, ta gieo hạt Giống Khôn
Lao động làm cho hạt giống lớn lên
Và đây là Kết quả khi thu hoạch:
“Đến như Nước, rồi đi như Gió rừng”.


XXIX.
Into this Universe, and why not knowing,
Nor whence, like Water willy-nilly flowing:
And out of it, as Wind along the Waste,
I know not whither, willy-nilly blowing.
*
Vào Vũ trụ, không biết được tại sao
Và như Nước, không biết được từ đâu
Rồi như Gió lướt bay trên Sa mạc
Dù muốn dù không, chẳng biết về đâu.


XXX.
What, without asking, hither hurried whence?
And, without asking, whither hurried hence!
Another and another Cup to drown
The Memory of this Impertinence!
*
Xin đừng hỏi ta rằng: đến từ đâu?
Và xin đừng hỏi gì chuyện: về sau?
Chén rót đầy, rồi rót cho đầy nữa
Để ta quên điều Sỉ nhục trong đầu.


XXXI.
Up from Earth’s Centre through the Seventh Gate
I rose, and on the Throne of Saturn sate,
And many Knots unravel’d by the Road;
But not the Knot of Human Death and Fate.
*
Từ lòng Đất ta xuyên qua Bảy Cổng
Rồi ta ngồi lên Ngai vàng Số phận
Và ta lẫn lộn Đầu mối trên Đường
Nơi đan kết Cái chết và Số phận.


XXXII.
There was a Door to which I found no Key:
There was a Veil past which I could not see:
Some little talk awhile of Me and Thee
There seemed—and then no more of Thee and Me.
*
Trước mặt ta cánh Cửa khoá im lìm
Và tấm Lưới, ta không thể nhìn xuyên
Về Em, về Anh, có lời to nhỏ
Nhưng sau chẳng còn Em cũng như Anh.


XXXIII.
Then to the rolling Heav’n itself I cried,
Asking, “What Lamp had Destiny to guide
Her little Children stumbling in the Dark?”
And—“A blind Understanding!” Heav’n replied.
*
Ta hướng về bầu Trời xanh, kêu lên
Hỏi: “Ngọn đèn nào của Số phận dẫn đường
Cho bầy Trẻ vấp váp trong Bóng tối?”
Câu trả lời: “Mù quáng!” tự Trời xanh.


XXXIV.
Then to the earthen Bowl did I adjourn
My Lip the secret Well of Life to learn:
And Lip to Lip it murmur’d—“While you live
Drink!—for once dead you never shall return.”
*
Khi đó ta ép Môi vào Chén đất
Để mong hiểu ra Ngọn Đời bí mật
Môi kề Môi, chén bảo: “Cứ uống đi
Kẻo không quay về sau khi đã chết”.

XXXV.
I think the Vessel, that with fugitive
Articulation answer’d, once did live,
And merry-make; and the cold Lip I kiss’d
How many kisses might it take—and give!
*
Ta nghĩ rằng Bình chứa nguồn rượu sống
Trả lời ta, từng một thời đã sống
Từng vui tươi, còn Môi lạnh ta hôn
Biết bao nụ hôn đã tan – và tặng.


XXXVI.
For in the Market-place, one Dusk of Day,
I watch’d the Potter thumping his wet Clay:
And with its all obliterated Tongue
It murmur’d—“Gently, Brother, gently, pray!”
*
Một hôm trong Chợ, vào giờ cuối ngày
Ta nhìn Thợ gốm, Đất sét trong tay
Và ta nghe tiếng thì thào, nức nở:
“Hỡi người Anh em, xin hãy nhẹ tay!”


XXXVII.
Ah, fill the Cup:—what boots it to repeat
How Time is slipping underneath our Feet:
Unborn To-morrow and dead Yesterday,
Why fret about them if To-day be sweet!
*
Rót đầy Chén, chuyện có để làm gì
Nhắc rằng Thời gian lướt dưới chân ta
Ngày mai chưa về, Hôm qua đã chết
Tiếc thương gì, Hôm nay đẹp nhường kia!


XXXVIII.
One Moment in Annihilation’s Waste,
One Moment, of the Well of Life to taste—
The Stars are setting and the Caravan
Starts for the Dawn of Nothing—Oh, make haste!
*
Một phút giây, trong Hoang mạc Điêu tàn
Một phút giây, để nếm vị Đời ngon
Sao sẽ tàn, Đoàn người trên sa mạc
Vào cõi Hư không – Ô, hãy vội vàng!


XXXIX.
How long, how long, in definite Pursuit
Of This and That endeavour and dispute?
Better be merry with the fruitful Grape
Than sadden after none, or bitter, Fruit.
*
Bao nhiêu lâu còn theo Đuổi mông lung
Để chuyện Này, Kia tranh luận thỏa lòng
Tốt hơn hết đi nếm mùi Rượu ngọt
Còn hơn buồn vì Trái đắng, hoặc không.


XL.
You know, my Friends, how long since in my House
For a new Marriage I did make Carouse:
Divorced old barren Reason from my Bed,
And took the Daughter of the Vine to Spouse.
*
Bạn biết không, ta đây đã từ lâu
Làm cuộc Hôn nhân, Uống rượu ồn ào
Xua khỏi giường bà già tên Lý trí
Và bây giờ, Con gái Rượu – Nàng dâu.


XLI.
For “Is” and “Is-not” though with Rule and Line,
And “Up-and-down” without, I could define,
I yet in all I only cared to know,
Was never deep in anything but—Wine.
*
Bằng thước ta đo được “Có” và “Không”
Hoặc “Lên-và-Xuống” chính xác như mong
Nhưng tất cả bây giờ ta chỉ biết
Mỗi một điều rằng uống Rượu là hơn.


XLII.
And lately by the Tavern Door agape,
Came stealing through the Dusk an Angel Shape
Bearing a Vessel on his Shoulder; and
He bid me taste of it; and ’twas—the Grape!
*
Mới gần đây, bên cánh Cửa mở toang
Trong buổi hoàng hôn có một Thiên thần
Ôm Bình rượu, và ngài mời ta nếm
Ta nhận ra rằng thứ Rượu thật ngon!


XLIII.
The Grape that can with Logic absolute
The Two-and-Seventy jarring Sects confute:
The subtle Alchemist that in a Trice
Life’s leaden Metal into Gold transmute.
*
Trong Rượu có thứ Logic tuyệt đối
Bác Bảy hai Giáo phái đang tranh cãi
Rượu là Nhà giả kim tuyệt trần
Trong phút giây biến Sắt thành Vàng thỏi.


XLIV.
The mighty Máhmúd, the victorious Lord
That all the misbelieving and black Horde
Of Fears and Sorrows that infest the Soul
Scatters and slays with his enchanted Sword.
*
Máhmúd tối cao, Chúa tể oai hùng
Nếu tất cả những nỗi Sợ màu đen
Và nỗi Buồn trong lòng ta dâng ngập
Ngài xua đi, chặt đầu chúng bằng gươm.


XLV.
But leave the Wise to wrangle, and with me
The Quarrel of the Universe let be:
And, in some corner of the Hubbub coucht,
Make Game of that which makes as much of Thee.
*
Bỏ lại Khôn ngoan và hãy cùng ta
Về Hỗn mang trong Vũ trụ bao la
Và ẩn vào một góc miền Hubbub
Để thử xem cho bạn được những gì.


XLVI.
For in and out, above, about, below,
’Tis nothing but a Magic Shadow-show,
Play’d in a Box whose Candle is the Sun,
Round which we Phantom Figures come and go.
*
Trong và ngoài, trên, dưới, xung quanh
Đấy chẳng khác gì chiếc Bóng Thần thông
Còn Mặt trời – cây Nến trong chiếc Hộp
Và ta – Bóng ma đi, đến vòng quanh.


XLVII.
And if the Wine you drink, the Lip you press,
End in the Nothing all Things end in—Yes—
Then fancy while Thou art, Thou art but what
Thou shalt be—Nothing—Thou shalt not be less.
*
Và nếu Rượu bạn uống, Môi ép vào
Cuối cùng Hư không, Vật chất như nhau
Bạn hãy vui, vì bây giờ bạn có
Bạn sẽ - Hư không – và chẳng ít hơn đâu.


XLVIII.
While the Rose blows along the River Brink,
With old Khayyám the Ruby Vintage drink;
And when the Angel with his darker Draught
Draws up to Thee—take that, and do not shrink.
*
Khi Hoa hồng còn nở bên Bờ Sông
Cùng Khayyam già hãy uống Rượu Hồng
Còn khi Thiên thần đem cho rượu Tối
Bạn hãy uống đi và chớ hoang mang.


XLIX.
’Tis all a Chequer-board of Nights and Days,
Where Destiny with Men for Pieces plays:
Hither and thither moves, and mates, and slays,
And one by one back in the Closet lays.
*
Đây bàn Cờ của Đêm và của Ngày
Số phận coi Người là con Tốt thôi
Đưa xuống, đẩy lên rồi đem chiếu tướng
Người tiếp người đưa vào Chỗ nghỉ ngơi.

L.
The Ball no Question makes of Ayes and Noes,
But Right or Left as strikes the Player goes;
And He that toss’d Thee down into the Field,
He knows about it all—He knows—HE knows!
*
Quả Bóng thì không nói Có và Không
Sang Phải, Trái theo Cầu thủ trên Sân
Chỉ Người ném bạn ra sân biết được
Ngài biết tất cả, Ngài biết được rằng!

LI.
The Moving Finger writes; and, having writ,
Moves on: nor all thy Piety nor Wit
Shall lure it back to cancel half a Line,
Nor all thy Tears wash out a Word of it.
*
Tay Số phận viết và tiếp trang sau
Lòng mộ đạo, Trí khôn, ích gì đâu
Không xóa nổi nửa dòng, và Nước mắt
Cũng không rửa đi Lời viết lúc đầu.


LII.
And that inverted Bowl we call The Sky,
Whereunder crawling coop’t we live and die,
Lift not thy hands to It for help—for It
Rolls impotently on as Thou or I.
*
Chén lật úp mà ta gọi Bầu trời
Ta bò trườn, sống rồi chết đấy thôi
Đừng giơ tay cầu xin Trời giúp đỡ
Chẳng giúp được gì cho Bạn và Tôi.


LIII.
With Earth’s first Clay They did the last Man’s knead,
And then of the Last Harvest sow’d the Seed:
Yea, the first Morning of Creation wrote
What the Last Dawn of Reckoning shall read.
*
Đất sét đầu, Họ nặn ra Người cuối
Và sau đó gieo hạt Giống mùa Sau
Buổi sáng đầu của Tạo thành viết vội
Rồi Bình minh tính sổ đọc sau này.


LIV.
I tell Thee this—When, starting from the Goal,
Over the shoulders of the flaming Foal
Of Heav’n Parwín and Mushtara they flung,
In my predestined Plot of Dust and Soul.
*
Nói với bạn – Khi ta ra khỏi Cổng
Con Ngựa Trời rực lửa chở ta vào
Nơi Linh hồn cùng Đất đai bụi bặm
Do Parwín và Mushtara ném vào.


LV.
The Vine had struck a Fibre; which about
It clings my Being—let the Súfi flout;
Of my Base Metal may be filed a Key,
That shall unlock the Door he howls without.
*
Cây Nho đâm rễ, cứ mặc Sufi
Chê sự Tồn tại của ta bám rễ
Từ Sắt của ta có thể đúc Chìa
Để mở Cánh cửa, kẻo người la ó.


LVI.
And this I know: whether the one True Light
Kindle to Love, or Wrath consume me quite,
One Glimpse of It within the Tavern caught
Better than in the Temple lost outright.
*
Ta biết rằng thứ Ánh sáng Trung thành
Đốt lên Tình yêu hoặc là Tức giận
Thà tận hưởng chút thoáng qua trong Quán
Cũng còn hơn để mất ở Thánh đường.


LVII.
Oh, Thou, who didst with Pitfall and with Gin
Beset the Road I was to wander in,
Thou wilt not with Predestination round
Enmesh me, and impute my Fall to Sin?
*
Ô, Ngươi là kẻ đặt Bẫy ở bên Đường
Là nơi mà ta thường vẫn lang thang
Có lẽ nào héo hon vì tiền định
Qui tội cho ta Đổ đốn, Lỗi lầm?


LVIII.
Oh, Thou, who Man of baser Earth didst make
And who with Eden didst devise the Snake:
For all the Sin wherewith the Face of Man
Is blacken’d, Man’s Forgiveness give—and take!
*
Ô, Ngươi lấy Đất nặn ra Con người
Nghĩ ra Thiên đường, đồng thời con Rắn
Vì lầm lỗi hiện trên gương mặt người
Ngươi tha thứ, và khoan dung được nhận.


LIX.
Listen again. One Evening at the Close
Of Ramazán, ere the better Moon arose,
In that old Potter’s Shop I stood alone
With the clay Population round in Rows.
*
Hãy nghe thêm. Vào một buổi chiều hôm
Tháng Ramazan, Trăng mới lưng chừng
Ta đứng một mình ở trong lò Gốm
Với Dân cư đất sét xếp thành Hàng.

LX.
And, strange to tell, among that Earthern Lot
Some could articulate, while others not:
And suddenly one more impatient cried—
“Who is the Potter, pray, and who the Pot?”
*
Nói nghe lạ lùng nhưng trong bao Số phận
Ai giỏi nói năng còn ai đó không
Bỗng đột ngột, một ai đó kêu lên:
“Ai là Thợ gốm, còn ai – đồ Gốm?”


LXI.
Then said another—“Surely not in vain
My substance from the common Earth was ta’en,
That He who subtly wrought me into Shape
Should stamp me back to common Earth again.”
*
Người khác bảo: “Thân xác ta, quả thật
Do bàn tay Ngài nặn ra từ Đất
Rồi Ngài trao cho đường nét, Dáng hình
Sau đấy lại nhồi ta về với Đất”.


LXII.
Another said—“Why ne’er a peevish Boy,
Would break the Bowl from which he drank in Joy;
Shall He that made the Vessel in pure Love
And Fancy, in an after Rage destroy!”
*
Một người khác: “Dù chàng Trai hay giận
Cũng chẳng bao giờ uống xong đập Chén
Tại sao Ngài đầy Tưởng tượng, Tình yêu
Làm ra Bình rồi đập khi tức Giận?”


LXIII.
None answer’d this; but after Silence spake
A Vessel of a more ungainly Make:
“They sneer at me for leaning all awry;
What! did the Hand then of the Potter shake?”
*
Không ai trả lời cho câu hỏi này
Một chiếc Bình vội vàng lên tiếng ngay:
“Họ cười ta vì thân ta méo xệch
Tại vì sao? Do Thợ gốm run tay?”


LXIV.
Said one—“Folks of a surly Tapster tell,
And daub his Visage with the Smoke of Hell;
They talk of some strict Testing of us—Pish!
He’s a Good Fellow, and ’twill all be well.”
*
Một người nói: “Bà con Chủ quán rằng:
Gương mặt ông với Khói từ Địa ngục
Họ nói về thử thách – nghe mà khiếp!
Ông tốt bụng, tất cả đều tuyệt trần”.

LXV.
Then said another with a long-drawn Sigh,
“My Clay with long oblivion is gone dry:
But, fill me with the old familiar Juice,
Methinks I might recover by and bye.”
*
Thì khi đó, một người khác thở dài:
“Đất tôi khô vì để quên lâu ngày
Nhưng nếu rót đầy cho tôi rượu cũ
Thì tôi nghĩ rằng sẽ phục hồi ngay”.


LXVI.
So while the Vessels one by one were speaking,
One spied the little Crescent all were seeking:
And then they jogg’d each other, “Brother! Brother!
Hark to the Porter’s Shoulder-knot a-creaking!”
*
Khi Bình và Chén đáp lời liên tiếp
Một kẻ nhìn thấy mảnh Trăng lưỡi liềm
Tất cả kêu lên: “Hỡi người Anh em!
Có nghe vai Thợ gốm rên - cót két!”


LXVII.
Ah, with the Grape my fading Life provide,
And wash my Body whence the Life has died,
And in a Winding-sheet of Vine-leaf wrapt,
So bury me by some sweet Garden-side.
*
Ô, hãy dùng Rượu để củng cố Đời ta
Khi ta chết, khâm liệm bằng lá Nho
Và trước đó, tắm rửa ta bằng Rượu
Rồi đem chôn đâu đó sau Vườn nhà.


LXVIII.
That ev’n my buried Ashes such a Snare
Of Perfume shall fling up into the Air,
As not a True Believer passing by
But shall be overtaken unaware.
*
Dù thân xác của ta chôn dưới đất
Nhưng trong Không khí mùi Thơm ngào ngạt
Không một người ngoan Đạo đi ngang qua
Mà lại có thể làm như không biết.


LXIX.
Indeed the Idols I have loved so long
Have done my Credit in Men’s Eye much wrong!
Have drown’d my Honour in a shallow Cup,
And sold my Reputation for a Song.
*
Quả thực, Thần tượng mà ta yêu mến
Đã đem lòng tin con người cho ta
Đã dìm Danh dự của ta trong Chén
Và bán Danh tiếng để lấy Bài ca. 


LXX.
Indeed, indeed, Repentance oft before
I swore—but was I sober when I swore?
And then and then came Spring, and Rose-in-hand
My thread-bare Penitence apieces tore.
*
Quả thực, trước khi Hối hận đã thề
Nhưng liệu có tỉnh khi nói lời kia?
Và Mùa xuân với Hoa hồng lại đến
Đã làm cho tan lời Sám hối kia.


LXXI.
And much as Wine has play’d the Infidel,
And robb’d me of my Robe of Honour—well,
I often wonder what the Vintners buy
One half so precious as the Goods they sell.
*
Dù rượu xử sự như người vô Đạo
Khoác cho ta chiếc Áo choàng Danh dự
Những Người bán rượu làm ta ngạc nhiên
Họ bán Hàng giá chỉ bằng một nửa.


LXXII.
Alas, that Spring should vanish with the Rose!
That Youth’s sweet-scented Manuscript should close!
The Nightingale that in the Branches sang,
Ah, whence, and whither flown again, who knows!
*
Than ôi, tàn héo cả Mùa xuân, Hoa hồng!
Cuốn sách Tuổi trẻ đành phải sang trang!
Và Họa mi trên cành giờ im tiếng
Bay về đâu, có ai biết được chăng!


LXXIII.
Ah, Love! could you and I with Fate conspire
To grasp this sorry Scheme of Things entire,
Would not we shatter it to bits—and then
Re-mould it nearer to the Heart’s Desire!
*
Ô, Tình yêu! Liệu ta và em có vần xoay Phận số
Để thay đổi trật tự này quả thật đáng thương
Để ta sẽ đập chúng ra từng mảnh nhỏ
Rồi nhập vào, xếp lại đẹp như mong.


LXXIV.
Ah, Moon of my Delight who know’st no wane,
The Moon of Heav’n is rising once again:
How oft hereafter rising shall she look
Through this same Garden after me—in vain!
*
Ô, Trăng của lòng ta không biết đến tàn
Trăng của Trời, trăng lại sẽ mọc lên
Và trăng lại sẽ đung đưa nhìn ngắm
Tìm ta trong Vườn – nhưng chỉ hoài công!

LXXV.
And when Thyself with shining Foot shalt pass
Among the Guests Star-scatter’d on the Grass,
And in thy joyous Errand reach the Spot
Where I made one—turn down an empty Glass!
*
Và khi Trăng soi sáng những đám đông
Những Người khách Số phận ném xuống trần
Trong vui sướng, khi trăng tìm đến Chỗ
Xưa ta ngồi – hãy úp ngược Chén không!

CHÚ THÍCH

*Mose
 – Trưởng lão Do Thái, là tác giả của 5 cuốn đầu tiên trong Kinh Thánh. 

*Irám
 – tức Iram of the Pillars, đây là một công trình xây dựng hoặc một thành phố được nói đến trong Kinh Koran (chương 89; mục 6 – 14). 

*Jamshýd
 – nhân vật huyền thoại, một trong những vị vua đầu tiên của Iran, theo truyền thuyết, là người chủ của chiếc chén thần có thể hiện ra tất cả mọi chuyện xảy ra trên đời.

*David
 – vị vua trong Kinh Thánh. Hồi giáo coi ông là một trong số các nhà tiên tri.

*Péhlevi
 – là ngôn ngữ Ba Tư trung cổ, thường được coi là ngôn ngữ của thánh thần. 

*Kaikobád
 – một trong những vị vua huyền thoại của Iran, một nhân vật trong “Shahnameh” (Sách Vua) của Ferdowsi. 

*Kaikhosrú 
– một trong những vị vua cổ Iran, cai trị khoảng 558 – 529 tr. CN. 

*Rustum
 – hiệp sĩ huyền thoại, nhân vật của nhiều giai thoại dân gian cũng như nhân vật trong “Shahnameh” (Sách Vua) của Ferdowsi. 

*Hátim Tai 
– nhà thơ chiến binh Ả Rập (khoảng cuối thế kỷ VI – đầu thế kỷ VII, trước khi Islam ra đời). 

*Máhmúd
 – tức Mahmud của Ghazni (998 – 1030). Ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của nhà Ghazni. Mahmud cũng được coi là vị vua đạo Hồi đầu tiên mang danh hiệu sultan.

*Bahrám
 – tức Bahram V (421 – 438), vị vua dòng họ Sassanid thứ 14 của Ba Tư. Dân gian coi ông là người đi săn huyền thoại. Nhà thơ Nezami ca ngợi ông trong trường ca “Bảy người đẹp” của mình. 

*Muezzín
 – giáo sĩ Hồi giáo, người từ tháp canh gọi tín đồ cầu nguyện. 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét