Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Thơ tình William Ernest Henley


INVICTUS*
 
Màn đêm đen dày đặc ở trên đầu
Đen như hố, cực này sang cực khác
Tôi cám ơn bất cứ vị thần nào
Cho tôi linh hồn kiên cường bất khuất.
 
Tôi chịu đựng đòn đau từ số kiếp
Mà không hề nhăn mặt, chẳng khóc than
Chân bước đi nhận biết những gian nan
Đầu đầy máu nhưng không hề cúi gục.
 
Vẫn còn nhiều tai họa và nước mắt
Những kinh hoàng ẩn nấp giữa bóng râm
Và những mối đe dọa của tháng năm
Tôi đã, đang và sẽ không sợ sệt.
 
Dù cánh cổng của đời không mở rộng
Vẫn còn nhiều hình phạt, những khó khăn
Tôi là chủ nhân của số phận mình
Với linh hồn mình – tôi là thuyền trưởng.
____________
*Invictus (tiếng Latinh) – Bất khuất.
 
Invictus
 
Out of the night that covers me
Black as the pit from pole to pole,
I thank whatever gods may be
For my unconquerable soul.
 
In the fell clutch of circumstance,
I have not winced nor cried aloud.
Under the bludgeonings of chance
My head is bloody, but unbowed.
 
Beyond this place of wrath and tears
Looms but the Horror of the shade,
And yet the menace of the years
Finds, and shall find, me unafraid.
 
It matters not how strait the gate,
How charged with punishments the scroll,
I am the master of my fate:
I am the captain of my soul.
 
 
THƠ TRIOLET KHÔNG HỀ KHÓ
 
Thơ triolet, thể thơ không khó
Nếu như bạn là một bậc thầy
Bạn chỉ cần lựa chọn vần điệu thôi
Thơ triolet, thể thơ không khó.
Như bạn thấy đấy! Tôi trả nợ
Với vần điệu khác, dễ dàng thôi
Thơ triolet, thể thơ không khó
Nếu như bạn là một bậc thầy.
_______________
*Thơ thể triôlê (tám câu, trong đó câu thứ nhất lặp lại ở câu thứ 4, thứ 7).
 
Easy is the Triolet
 
Easy is the Triolet,
If you really learn to make it!
Once a neat refrain you get,
Easy is the Triolet.
As you see! I pay my debt
With another rhyme, Deuce take it,
Easy is the Triolet,
If you really learn to make it!
 

Thơ tình William Allingham

 
BUỔI TỐI
 
Bầu trời đang dần tối
Một ngôi sao giữa trời
Buồn vây lấy ngọn đồi
Tình yêu đang hấp hối.
 
Khó mà rơi nước mắt
Khó mà nói một lời
Kết thúc một ngày hè
Và tình yêu đã chết.
 
An Evening
 
A sunset's mounded cloud;
A diamond evening-star;
Sad blue hills afar;
Love in his shroud.
 
Scarcely a tear to shed;
Hardly a word to say;
The end of a summer day;
Sweet Love dead.
 
 
HÃY ĐỂ TÔI HÁT NHỮNG GÌ TÔI BIẾT
 
Phía tây hoang dã, bờ biển, thành phố nhỏ
Một tộc người nhỏ bé sống ở đây
Thủy triều lên xuống và cơn gió
Màn đêm tối, biển khơi và giông tố.
Ý chí con người, số phận con người:
Điều gì quyết định, điều gì lớn nhỏ?
Hãy để cho tôi tìm câu trả lời
Tôi hát về những gì tôi biết rõ.
 
Let Me Sing Of What I Know
 
A wild west Coast, a little Town,
Where little Folk go up and down,
Tides flow and winds blow:
Night and Tempest and the Sea,
Human Will and Human Fate:
What is little, what is great?
Howsoe'er the answer be,
Let me sing of what I know.
 
 
HOÀI NIỆM
 
Bốn con vịt trên đầm
Trên bờ hoa cỏ màu xanh
Bầu trời mùa xuân xanh thắm
Và mây trắng nằm trên đôi cánh
Có vẻ chỉ là vớ vẩn linh tinh
Nhưng ký ức của nhiều tháng năm
Làm nước mắt rơi trong hoài niệm!
 
A Memory
 
Four ducks on a pond,
A grass-bank beyond,
A blue sky of spring,
White clouds on the wing;
What a little thing
To remember for years-
To remember with tears!



Thơ tình Robert Louis Stevenson


Tập “Những khúc hát lữ hành”
 
LÃNG DU
 
Cho tôi sống như ý
Nhiều thứ tôi chẳng cần
Chỉ bầu trời phía trên
Và con đường phía dưới.
Giường tôi đặt trong bụi
Bánh mì nhúng nước sông
Mong cuộc sống như vậy
Đi hết con đường trần.
 
Sớm sủa hay muộn màng
Tai ương cũng sẽ tới
Cần mặt đất xung quanh
Cần con đường rộng mở
Chứ không cần giàu có
Không hy vọng, không tình
Chỉ bầu trời phía trên
Và con đường phía dưới.
 
Còn khi mùa thu tới
Không chán nản, không buồn
Tiếng chim sẽ im lặng
Ngón tay cũng đóng băng
Tuyết rơi trắng trên đồng
Bên bếp lò sưởi ấm
Mùa thu – không chịu đựng
Sau đó sẽ mùa đông.
 
Sớm sủa hay muộn màng
Tai ương cũng sẽ tới
Cần mặt đất xung quanh
Cần con đường rộng mở
Chứ không cần giàu có
Không hy vọng, không tình
Chỉ bầu trời phía trên
Và con đường phía dưới.
 
The Vagabond
(From Songs of Travel)
 
Give to me the life I love,
Let the lave go by me,
Give the jolly heaven above
And the byway nigh me.
Bed in the bush with stars to see,
Bread I dip in the river -
There's the life for a man like me,
There's the life for ever.
 
Let the blow fall soon or late,
Let what will be o'er me;
Give the face of earth around
And the road before me.
Wealth I seek not, hope nor love,
Nor a friend to know me;
All I seek, the heaven above
And the road below me.
 
Or let autumn fall on me
Where afield I linger,
Silencing the bird on tree,
Biting the blue finger.
White as meal the frosty field -
Warm the fireside haven -
Not to autumn will I yield,
Not to winter even!
 
Let the blow fall soon or late,
Let what will be o'er me;
Give the face of earth around,
And the road before me.
Wealth I ask not, hope nor love,
Nor a friend to know me;
All I ask, the heaven above
And the road below me.
 
 
KHÔNG HIỂU VỚI BẠN CÓ LÀ NHƯ THẾ
 
Không hiểu với bạn có là như thế
Nhưng mà tôi, tôi yêu mến vô cùng
Tất cả những gì ở trong hiện tại
Và những gì trong quá khứ xa xăm.
 
Bởi vì ta không thể nào thay đổi
Một thứ gì đang có hay đã từng
Một ngôi sao đến muôn đời vẫn vậy
Soi sáng trần gian từ giữa trời đêm.
 
Và trong cuộc sống, mỗi ngày mỗi giờ
Có những thứ mới mẻ luôn xuất hiện:
Một con đường, vườn cây, một bông hoa
Những bụi mâm xôi mà ta yêu mến.
 
I Know Not How It is With You
(From Songs of Travel)
 
I know not how it is with you --
I love the first and last,
The whole field of the present view,
The whole flow of the past.
 
One tittle of the things that are,
Nor you should change nor I --
One pebble in our path -- one star
In all our heaven of sky.
 
Our lives, and every day and hour,
One symphony appear:
One road, one garden -- every flower
And every bramble dear.
 
 
VỢ TÔI
 
Tin cậy và chung thủy
Đôi mắt nàng sáng trong
Người bạn đời trung thành
Bậc Nghệ nhân vĩ đại
Đã ban tặng tôi chăng?
 
Dũng cảm và danh dự
Yêu cuộc sống, yêu tình
Với cái chết coi thường
Có phải Thầy vĩ đại
Đã ban tặng cho nàng?
 
Người thầy, người đồng chí
Người vợ, người bạn đường
Toàn tâm và toàn ý
Có phải Cha trên ấy
Đã ban tặng tôi không?
 
My Wife
(From Songs of Travel)
 
Trusty, dusky, vivid, true,
With eyes of gold and bramble-dew,
Steel-true and blade-straight,
The great artificer
Made my mate.
 
Honour, anger, valour, fire;
A love that life could never tire,
Death quench or evil stir,
The mighty master
Gave to her.
 
Teacher, tender, comrade, wife,
A fellow-farer true through life,
Heart-whole and soul-free
The august father
Gave to me.
 
 

Tập “Vườn thơ của trẻ”

KHÔNG PHẢI TÔI
 
Ai đấy thích uống rượu
Ai đấy một panh bia.
Ai đấy thích suy nghĩ
Ai không thích điều này.
 
Mùi nồng của phô mai
Rượu Kentucky cũ
Ai đấy thích điều đó
Nhưng mà không phải tôi.
 
Người này thấy thích Pô
Người kia thích Scott
Stow – ai đấy thích
Ai không thích người này.
 
Ai đấy chỉ thích cười
Còn ai chỉ thích khóc
Ai chế giễu người khác
Nhưng mà không phải tôi.
 
Not I
 
Some like drink
In a pint pot.
Some like to think;
Some not.
 
Strong Dutch Cheese,
Old Kentucky Rye,
Some like these;
Not I.
 
Some like Poe
And other like Scott;
Some like Mrs Stow;
Some not.
 
Some like to laugh,
Some like to cry,
Some like chaff;
Not I.
 
 


TRẺ EM NƯỚC NGOÀI
 
Bạn người Thổ, người Ấn
Người Nhật, người da đen…
Các bạn có muốn sống
Ở đất nước chúng mình?
 
Quê bạn có nhiều cây
Có bao nhiêu loài thú
Bạn ăn trứng đà điểu
Rút chân những con rùa.
 
Quả thực là tuyệt vời
Nhưng không bằng tôi nhé
Bạn nhiều khi khó chịu
Không được đi nước ngoài.
 
Bạn ăn thứ lạ đời
Còn tôi chỉ ăn thịt
Bạn sống ngoài bọt nước
Còn tôi – chỉ nhà thôi.
 
Bạn người Thổ, người Ấn
Người Nhật, người da đen…
Các bạn có muốn sống
Ở đất nước chúng mình?
 
Foreign Children
 
Little Indian, Sioux or Crow,
Little frosty Eskimo,
Little Turk or Japanee,
O! Don’t you wish that you were me?
 
You have seen the scarlet trees
And the lions oversees;
You have eaten ostrich eggs,
And turned the turtles off their legs.
 
Such a life is very fine,
But it’s not so nice as mine:
You must often, as you trod,
Have wearied not to be abroad.
 
You have curious things to eat,
I am fed on proper meat;
You must dwell beyond the foam,
But I am safe and live at home.
 
Little Indian, Sioux or Crow,
Little frosty Eskimo,
Little Turk or Japanee,
O! Don’t you wish that you were me?
 
 
AI CŨNG HÁT
 
Chim mẹ hát về trứng
Về tổ và chim non
Thủy thủ về cánh buồm
Những thứ trên tàu biển.
 
Trẻ hát ở nước Nhật
Và ở Tây Ban Nha
Khi trời đổ cơn mưa
Người ôm phong cầm hát.
 
Singing
 
Of speckled eggs the birdie sings
And nests among the trees;
The sailor sings of ropes and things
In ships upon the seas.
 
The children sing in far Japan,
The children sing in Spain;
The organ with the organ man
Is singing in the rain.
 
 
GỬI MẸ TÔI
 
Mẹ thân yêu, mẹ đọc thơ của con
Vì tình yêu đã từng trong quá khứ
Mẹ có thể nghe lại thêm lần nữa
Những bước chân nhỏ nhẹ bước trên sàn.
 
To my Mother
 
You too, my mother read my rhymes
For love of unforgotten times,
And you may chance to hear once more
The little feet along the floor.
 
 
NHIỆM VỤ CỦA TRẺ EM
 
Con trẻ phải luôn nói những gì đúng
Phải biết cách cư xử tại bàn ăn
Và trả lời câu hỏi của người lớn
Mỗi khi người lớn nói chuyện với con.
 
Whole Duty of Children
 
A CHILD should always say what’s true  
And speak when he is spoken to,    
And behave mannerly at table;        
At least as far as he is able.
 
 
CẬU BÉ NGOAN
 
Thức dậy sớm, tôi vui suốt cả ngày
Không nói lời xấu, gặp ai cũng cười.
 
Và bây giờ khi mặt trời đã lặn
Tôi thấy vui vì biết rằng mình đúng.
 
Giường của tôi mát mẻ với vải lanh
Tôi đi ngủ, và cầu nguyện không quên.
 
Tôi biết rằng đến lúc mặt trời mọc
Không có ác mộng làm tôi thức giấc.
 
Tôi ngủ say cho đến buổi bình minh
Rồi thức giấc nghe chim hót trên cành.
 
A Good Boy
 
I woke before the morning, I was happy all the day,
I never said an ugly word, but smiled and stuck to play.
 
And now at last the sun is going down behind the wood,
And I am very happy, for I know that I've been good.
 
My bed is waiting cool and fresh, with linen smooth and fair,
And I must be off to sleepsin-by, and not forget my prayer.
 
I know that, till to-morrow I shall see the sun arise,
No ugly dream shall fright my mind, no ugly sight my eyes.
 
But slumber hold me tightly till I waken in the dawn,
And hear the thrushes singing in the lilacs round the lawn.
 
 
NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC
 
Một mai này, khi mà tôi đã lớn
Thành một chàng trai cao to khỏe mạnh
Sẽ nói với các chị các anh rằng
Đừng động vào kẻo đồ chơi tôi hỏng.
 
Looking Forward
 
WHEN I am grown to man’s estate 
I shall be very proud and great,       
And tell the other girls and boys      
Not to meddle with my toys.
 
 
HỆ THỐNG
 
Mỗi buổi tối cầu nguyện trước khi ngủ
Và mỗi ngày gọn ghẽ trước bàn ăn
Nếu ngày nào cũng ngoan như vậy cả
Sau khi ăn tôi được thưởng quả cam.
 
Có cậu bé không gọn gàng tươm tất
Đồ chơi, đồ ăn để lộn tùng phèo
Bạn không ngoan, nhưng mà tôi tin chắc –
Hay là cha của bạn ấy rất nghèo.
 
System
 
Every night my prayers I say,
And get my dinner every day;
And every day that I've been good,
I get an orange after food.
 
The child that is not clean and neat,
With lots of toys and things to eat,
He is a naughty child, I'm sure—
Or else his dear papa is poor.
 
 
MƯA
 
Mưa đổ xuống khắp nơi,
Trên cánh đồng, trên cây,
Trên những con tàu biển
Và trên chiếc ô này.
 
Rain
 
The rain is raining all around,
It falls on field and tree,
It rains on the umbrellas here,
And on the ships at sea.
 
 
Ý NGHĨ VUI
 
Có biết bao nhiêu thứ
Tuyệt vời ở trần gian
Tôi tin rằng ta sẽ
Hạnh phúc như ông hoàng.
 
Happy Thought
 
The world is so full of a number of things,
I'm sure we should all be as happy as kings.
 
 
THỜI GIAN THỨC DẬY
 
Có con chim mỏ vàng
Đậu lên ô cửa sổ
Chim kêu: “Ngủ nhiều thế
Bạn có xấu hổ không!”
 
Time to Rise
 
A birdie with a yellow bill
Hopped upon my window sill,
Cocked his shining eye and said:
"Ain't you 'shamed, you sleepy-head!"
 
 

Tập “Những khóm cây thấp”
 
KHÚC TƯỞNG NIỆM
 
Dưới bầu trời rộng mở, dưới sao trời
Hãy đào huyệt, chôn tôi nằm xuống đất
Tôi đã sống và tôi vui lòng chết
Lời di chúc tôi để lại thế này.
 
Xin bạn hãy ghi trên mộ của tôi:
“Anh nằm ở nơi mà anh mong muốn
Như người thủy thủ trở về với biển
Như người thợ săn về với núi đồi”.
 
Requiem
(From Underwoods)
 
Under the wide and starry sky
Dig the grave and let me lie.
Glad did I live and gladly die,
And I laid me down with a will.
 
This be the verse you grave for me;
Here he lies where he longed to be,
Home is the sailor, home from sea,
And the hunter home from the hill.
 
 
Tập “Thơ mới”
 
VÀO CỬA TỰ DO
 
Hỡi vị khách quí! Vào cửa tự do
Tất cả của bạn, những gì bạn thấy
Ta đều là khách một hồi của Chúa
Không biết khi nào sẽ phải ra đi.
 
Hail, Guest, And Enter Freely!
(From New poems and variant readings)
 
HAIL, guest, and enter freely! All you see
Is, for your momentary visit, yours; and we
Who welcome you are but the guests of God,
And know not our departure.





Thơ tình Joseph Addison


BÀI THƠ ODE
 
Bầu trời ở trên đầu ta trải rộng
Khắp nơi đều thăm thẳm một màu xanh
Hãy đưa mắt nhìn nam bắc tây đông
Có giọng nói dường như đang lên tiếng:
Mặt trời không mệt mỏi, theo ngày tháng
Đang chỉ ra sức mạnh Đấng Toàn Năng
Sự diệu kỳ trong cuộc đời rộng lớn
Dường như nhờ Bàn tay của Ngài nâng.
 
Cứ mỗi lần, khi bóng tối bao trùm
Trăng kể về sự ra đời của mình
Về một điều rằng kể từ ngày ấy
Thảy muôn loài đều do Ngài sáng tạo
Câu chuyện này không có sự dối gian
Và tất cả mọi hành tinh xung quanh
Đều khẳng định như một điều chân lý
Và mang tin này đi khắp thế gian.
 
Chẳng lẽ chúng trong im lặng trang nghiêm
Chuyển động vòng quanh trái đất tối tăm?
Chẳng lẽ không có lời hay tiếng động
Giữa những hành tinh có thể đi tìm?
Nhưng mà không! Tất cả đều vui mừng
Nghe một giọng nói thốt ra sang sảng
Chúng hát lên khi chúng đang tỏa sáng:
“Ta được tạo do bàn tay của Thánh thần!”
 
Ode
 
The spacious firmament on high,
With all the blue ethereal sky,
And spangled heav'ns, a shining frame,
Their great original proclaim:
Th' unwearied Sun, from day to day,
Does his Creator's power display,
And publishes to every land
The work of an Almighty Hand.
 
Soon as the evening shades prevail,
The Moon takes up the wondrous tale,
And nightly to the list'ning Earth
Repeats the story of her birth:
Whilst all the stars that round her burn,
And all the planets, in their turn,
Confirm the tidings as they roll,
And spread the truth from pole to pole.
 
What though, in solemn silence, all
Move round the dark terrestrial ball?
What though nor real voice nor sound
Amid their radiant orbs be found?
In Reason's ear they all rejoice,
And utter forth a glorious voice,
For ever singing, as they shine,
'The Hand that made us is Divine.'
 
 
GỬI MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ XẤU
(Mô phỏng thơ Martial)
 
Trong bóng tối tôi nắm bàn tay em dịu dàng
Và nghe tiếng nàng tiên cá trong lời của em
Ngọn lửa cháy, mũi tên, nỗi khổ tôi chịu đựng!
Nhưng em thắp nến lên thì tôi được chữa lành.
 
To an Ill-Favored Lady
(Imitated from Martial)
 
While in the dark on thy soft hand I hung,
And heard the tempting syren in thy tongue,
What flames, what darts, what anguish I endured!
But when the candle entered I was cured.
_______________
* Martial (Marcus Valerius Martialis, 41 – 102) – nhà thơ trào phúng La Mã.
 
 


GỬI THẰNG ĐỂU
(Mô phỏng thơ Martial)
 
Bộ râu, mái tóc có màu khác nhau
Một chân ngắn và đôi mắt nhìn xéo
Bạn có dấu hiệu một tay lừa đảo
Phải thành thật – bạn là kẻ dối lừa.
 
To Rouge
(Imitated from Martial)
 
Thy beard and head are of a different dye :
Short of one foot, distorted in an eye :
With all these tokens of a knave complete,
Should’st thou be honest, thou ’rt a dev’lish cheat.
 

Thơ tình Henry Wotton


ĐẶC TÍNH CỦA ĐỜI SỐNG HẠNH PHÚC
 
Phước cho ai sinh ra và được học
Không bao giờ làm theo ý người ta
Vũ khí chính là nghĩ suy trung thực
Và sự thật là kỹ năng tối đa!
 
Ai người luôn làm chủ những đam mê
Linh hồn ai sẵn sàng cho cái chết
Đối xử với đời bằng cách chăm sóc
Danh tiếng cộng đồng, hơi thở riêng tư.
 
Ai không nuôi hiềm khích hay ghét ghen
Trước sự thành công của bao người khác
Sống theo đạo đức chứ không phải luật
Những lời khen ngợi dễ làm tổn thương.
 
Ai không hề nghe theo những tin đồn
Lương tâm của mình không đem bán rẻ
Với những kẻ xu nịnh không nhượng bộ
Xét xử người ta không quá lạnh lùng.
Ai mỗi sáng thức dậy lo cầu nguyện
Chỉ hồng ân, không xin xỏ thứ gì
Còn mỗi chiều lại ưa thích trò chuyện
Với cuốn sách Kinh hoặc với bạn bè.
 
– Con người này tự do, không như ai
Hy vọng lên voi, kinh hoàng xuống chó
Là chủ của mình, dù không đất đai
Không có gì nhưng mà có tất cả.
 
The Character of a Happy Life
 
How happy is he born and taught
That serveth not another's will;
Whose armour is his honest thought,
And simple truth his utmost skill!
 
Whose passions not his masters are;
Whose soul is still prepared for death,
Untied unto the world by care
Of public fame or private breath;
 
Who envies none that chance doth raise,
Nor vice; who never understood
How deepest wounds are given by praise;
Nor rules of state, but rules of good;
 
Who hath his life from rumours freed;
Whose conscience is his strong retreat;
Whose state can neither flatterers feed,
Nor ruin make oppressors great;
 
Who God doth late and early pray
More of His grace than gifts to lend;
And entertains the harmless day
With a religious book or friend;
 
—This man is freed from servile bands
Of hope to rise or fear to fall:
Lord of himself, though not of lands,
And having nothing, yet hath all.
 
 

ELIZABETH CỦA BOHEMIA
 
Những vì sao lấp lánh giữa trời đêm
Vẻ đẹp này chưa làm mắt thỏa mãn
Và ánh sáng chẳng qua nhờ số lượng
Giữa trời kia, sao – những kẻ bình thường
Biết làm gì khi mặt trăng xuất hiện?
 
Những loài chim – ca sĩ của núi rừng
Chỉ biết hát những bài ca đơn giản
Trong muôn vàn giọng hát giữa thiên nhiên
Ai còn nhận ra giọng hát bình thường
Hay để ý, khi họa mi lên tiếng?
 
Những bông hoa tím đầu tiên trên đồng
Hoa kiêu hãnh với màu áo của mình
Vẻ tuyệt vời như những nàng trinh nữ
Dường như hoa muốn chiếm trọn mùa xuân
Nhưng làm gì, khi hoa hồng nở rộ?
 
Nếu bạn gặp tình nhân tôi một lần
Vẻ đẹp trí tuệ làm bạn ngạc nhiên
Xứng với ngai vàng, không cần chọn lựa
Bạn sẽ nói: sinh ra mà quyến rũ
Để làm lu mờ hoặc để tôn vinh.
 
Elizabeth of Bohemia
 
You meaner beauties of the night,
That poorly satisfy our eyes
More by your number than your light,
You common people of the skies;
What are you when the moon shall rise?
 
You curious chanters of the wood,
That warble forth Dame Nature’s lays,
Thinking your passions understood
By your weak accents; what’s your praise
When Philomel her voice shall raise?
 
You violets that first appear,
By your pure purple mantles known
Like the proud virgins of the year,
As if the spring were all your own;
What are you when the rose is blown?
 
So, when my mistress shall be seen
In form and beauty of her mind,
By virtue first, then choice, a Queen,
Tell me, if she were not design’d
Th’ eclipse and glory of her kind.
 
 
VĂN BIA CHO HAI NGƯỜI
 
Anh ấy chết trước tiên
Còn cô gắng sống tiếp
Nhưng sống không có anh
Cô không thích và chết.
 
Upon The Death Of Sir Albert Morton's Wife
 
He first deceased; she for a little tried
To live without him, liked it not, and died.
 
 


Trích một số câu nói của Henry Wotton từ tác phẩm
“Chân dung của Dorian Gray” của Oscar Wilde 
 
VỀ CÁI ĐẸP
 
Sắc đẹp là một dạng thiên tài, thậm chí còn cao hơn thiên tài, bởi vì nó không đòi hỏi sự giải thích. Sắc đẹp là một trong những hiện tượng vĩ đại của thế giới chúng ta, như ánh sáng mặt trời, như mùa xuân, như sự phản chiếu trong vùng nước tối của lớp vỏ bạc mà chúng ta gọi là mặt trăng. Sắc đẹp là không thể phủ nhận. Nó có quyền tối cao để cai trị và làm cho những người sở hữu nó trở thành hoàng tử… Đối với tôi, sắc đẹp là một kỳ quan trong những kỳ quan. Chỉ có những người nông cạn mới không đánh giá bằng vẻ ngoài. Bí ẩn thực sự của thế giới là hữu hình chứ không phải vô hình...

=And beauty is a form of genius -- is higher, indeed, than genius, as it needs no explanation. It is of the great facts of the world, like sunlight, or spring-time, or the reflection in dark waters of that silver shell we call the moon. It cannot be questioned. It has its divine right of sovereignty. It makes princes of those who have it.... To me, beauty is the wonder of wonders. It is only shallow people who do not judge by appearances. The true mystery of the world is the visible, not the invisible...
 
 
VỀ SỰ CHUNG THỦY
 
Trong tình yêu, lòng chung thủy hoàn toàn là vấn đề sinh lý, nó không phụ thuộc chút nào vào ý chí của chúng ta. Những người trẻ tuổi muốn chung thủy – và họ không làm thế, những người già muốn thay đổi, nhưng họ thì còn gì! Thế thôi.

=Why, even in love it is purely a question for physiology. It has nothing to do with our own will. Young men want to be faithful, and are not; old men want to be faithless, and cannot: that is all one can say.
 
VỀ HÔN NHÂN
 
Đàn ông cưới vợ vì mệt mỏi, phụ nữ lấy chồng vì tò mò. Và cả hai đều thất vọng.

=Men marry because they are tired; women, because they are curious: both are disappointed.
 
 
VỀ SỰ ĐAU KHỔ
 
Phụ nữ chịu đau khổ dễ dàng hơn đàn ông. Họ sống bằng cảm xúc của mình, và họ chỉ nghĩ về cảm xúc của họ. Họ đi yêu những người yêu chỉ là để có ai đó làm cảnh.

=Women were better suited to bear sorrow than men. They lived on their emotions. They only thought of their emotions. When they took lovers, it was merely to have some one with whom they could have scenes.
 
 
VỀ SỰ NGƯỠNG MỘ
 
Thà ngưỡng mộ người khác còn hơn được ngưỡng mộ. Được ngưỡng mộ là một sự phiền toái. Phụ nữ đối xử với đàn ông chúng ta giống như cách loài người đối xử với các vị thần của họ. Phụ nữ tôn thờ chúng ta và họ làm phiền, liên tục đòi hỏi một cái gì đó.
 
Phụ nữ cho đàn ông những điều quý giá nhất trong cuộc sống.
 
Nhưng họ luôn đòi hỏi nó trở lại. Như một người Pháp dí dỏm đã nói, phụ nữ truyền cảm hứng cho chúng ta làm những kiệt tác nhưng họ luôn ngăn cản chúng ta thực hiện chúng.
 
=But adoring someone is certainly better than being adored. Being adored is a nuisance. You'll discover, Dorian, that women treat us just as humanity treats its gods. They worship us and keep bothering us to do something for them.
 
You must admit that women give men the very gold of their lives.
 
But they invariably want it back in such small change. Women, as a witty Frenchman put it, inspire us with the desire to do masterpieces and always prevent us from carrying them out.
 
 
VỀ NGƯỜI CÓ VĂN HÓA
 
Người có văn hóa không bao giờ hối tiếc rằng anh ta đam mê những thú vui khoái lạc, còn người vô văn hóa thì không biết được khoái lạc là gì.

=A cultured person never repents of indulging in pleasures, and an uncivilized person does not know what pleasure is.


Thơ tình Edward de Vere


YÊU SỰ LỰA CHỌN CỦA MÌNH
 
Ai dạy trái tim những tiếng thở dài?
Ai dạy lưỡi nói những lời rên rỉ?
Ai cho đôi mắt dòng lệ đầy vơi?
Và ai biến niềm vui thành nỗi khổ?
 
Ai tô màu tái nhợt lên mặt bạn?
Ai đầu tiên phá hỏng giấc ngủ ngon?
Trong triều đình ai đã ban ân sủng?
Và ai khuyên bạn phải sống đàng hoàng?
 
Hãy đứng vững trên chính nghĩa của mình
Coi khinh người đời nhưng không bè bạn
Và ước mong làm mọi thứ đến cùng
Với những gì đam mê cần chịu đựng.
 
Bạn hãy yêu sự lựa chọn của mình
Và chỉ cái chết mới có quyền hành.
 
Love Thy Choice
 
Who taught thee first to sigh, alas, my heart?
Who taught thy tongue the woeful words of plaint?
Who filled your eyes with tears of bitter smart?
Who gave thee grief and made thy joys to faint?
 
Who first did paint with colours pale thy face?
Who first did break thy sleeps of quiet rest?
Above the rest in court who gave thee grace?
Who made thee strive in honour to be best?
 
In constant truth to bide so firm and sure,
To scorn the world regarding but thy friends?
With patient mind each passion to endure,
In one desire to settle to the end?
 
Love then thy choice wherein such choice thou bind,
As nought but death may ever change thy mind.
 
 


TÍNH HAY THAY ĐỔI CỦA PHỤ NỮ
 
Giá như mà phụ nữ luôn trung thực
Yêu thật lòng, không phụ bạc đàn ông
Thì tôi sẽ hoàn toàn chẳng ngạc nhiên
Khi họ bỏ công sức mà chinh phục.
Nhưng những kẻ yếu đuối do trời sinh
Bắt đàn ông phụng sự mình hết sức.
 
Họ cũng không chọn ai mình phụ bạc
Mà từ thần Ánh sáng đến thần Pan
Họ thường thả ra những con chim ưng
Được bay từ tay này sang tay khác.
Ai không coi rằng mình là kẻ ngốc
Thì để chim bay theo ý của mình.
 
Chỉ đến khi mệt mỏi, cảm thấy buồn
Dường như mình đã bị rơi vào bẫy
Khi ta nhận ra những điều gian dối
Ta mệt nhoài, nhớ lại những trò ngông
Và khi đó với chính mình ta nói:
“Những đồ điên! Ta là một thằng điên!”
 
Woman's Changeableness
 
If women could be fair and yet not fond,
Or that their love were firm not fickle, still,
I would not marvel that they make men bond,
By service long to purchase their good will;
But when I see how frail those creatures are,
I muse that men forget themselves so far.
 
To mark the choice they make, and how they change,
How oft from Phoebus do they flee to Pan,
Unsettled still like haggards wild they range,
These gentle birds that fly from man to man;
Who would not scorn and shake them from the fist
And let them fly fair fools which way they list.
 
Yet for disport we fawn and flatter both,
To pass the time when nothing else can please,
And train them to our lure with subtle oath,
Till, weary of their wiles, ourselves we ease;
And then we say when we their fancy try,
To play with fools, O what a fool was I.
 

Thơ tình Philip Sidney


Từ tác phẩm “Astrophel and Stella”
 
SONNET 1
 
Tôi muốn tả trong thơ tình yêu mình
Để Nàng thơ thấy rằng tôi khó nhọc
Để khi đọc Nàng tỏ ra thương xót
Bởi nếu thương tình ân sủng sẽ ban.
 
Lời thích hợp cho thơ tôi đi tìm
Trong nhiều tập sách của bao người khác
Để trong não bị mặt trời thiêu đốt
Có những dòng thơ từ đấy sẽ tuôn.
 
Nhưng mà không, lời khập khiễng, xa xăm
Lời của tôi giống như bầy trẻ nhỏ
Những bước chân trên con đường xa lạ
Trong khổ đau tôi cắn bút âm thầm.
 
Bỗng đột nhiên, Nàng thơ kêu: – Đồ ngốc
Hãy nhìn vào con tim và hãy viết!
 
Sonnet 1
 
Loving in truth, and fain in verse my love to show,
That she, dear she, might take some pleasure of my pain,
Pleasure might cause her read, reading might make her know,
Knowledge might pity win, and pity grace obtain,—
 
I sought fit words to paint the blackest face of woe,
Studying inventions fine, her wits to entertain,
Oft turning others’ leaves, to see if thence would flow
Some fresh and fruitful showers upon my sunburned brain.
 
But words came halting forth, wanting Invention’s stay:
Invention, Nature’s child, fled step-dame Study’s blows,
And others’ feet still seemed but strangers in my way.
Thus great with child to speak, and helpless in my throes,
 
Biting my truant pen, beating myself for spite:
“Fool,” said my Muse to me, “look in thy heart and write.”
 
 
SONNET 2
 
Không mũi tên, không cái nhìn đầu tiên
Thần tình yêu đã làm tôi đau đớn
Bởi biết rằng không cần sức phí uổng
Đối với tôi thần chinh phục dễ dàng.
 
Tôi thấy yêu, thích thú, nhưng rồi quên
Tôi đã yêu nhưng tình tôi giấu kỹ
Và cuối cùng với tình tôi đồng ý
Ngọn lửa tình bùng cháy ở trong tim.
 
Giờ bước chân tự do cũng không còn
Như người Nga sinh ra làm nô lệ*
Tôi gọi đó không phải điều tai họa
Vui với phần còn lại của trí khôn.
 
Để tôi tin rằng điều này tốt đẹp
Và tôi vui mừng vẽ ra địa ngục.
________________
*Câu “Như người Nga sinh ra làm nô lệ”, ý tác giả so sánh người đang yêu trong sự tù hãm của tình giống như người dân Nga trong thời cai trị của Ivan Bạo Chúa (1530 – 1584).
 
Sonnet 2
 
Not at first sight, nor with a dribbed shot
Love gave the wound, which while I breathe will bleed;
But known worth did in mine of time proceed,
Till by degrees it had full conquest got:
 
I saw and liked, I liked but loved not;
I lov'd, but straight did not what Love decreed.
At length to love's decrees I, forc'd, agreed,
Yet with repining at so partial lot.
 
Now even that footstep of lost liberty
Is gone, and now like slave-born Muscovite
I call it praise to suffer tyranny;
And now employ the remnant of my wit
 
To make myself believe that all is well,
While with a feeling skill I paint my hell.
 
 

SONNET 6
 
Nhà thơ nói với Nàng thơ của mình
Về hy vọng và nỗi sợ thường xuyên
Về ánh sáng sinh ra từ địa ngục
Về bão giông, cái chết, vết thương lòng.
 
Thần Jove với hình dáng lạ lùng
Khi cơn mưa vàng, khi con bò đực
Rồi làm một kẻ chăn cừu khi khác
Thổi sáo rất hay rảo bước trên đồng.
 
Ông không than phiền trong thơ của mình
Từ bờ môi ông những lời thổn thức
Nước mắt, nỗi buồn tuôn theo ngòi bút
Giá mà tôi cũng làm được như ông.
 
Trong lòng tôi không có những lời kia
Giọng run rẩy rằng tôi yêu Stella.
 
Sonnet 6
 
Some lovers speak when they their Muses entertain,
Of hopes begot by fear, of wot not what desires:
Of force of heav'nly beams, infusing hellish pain:
Of living deaths, dear wounds, fair storms, and freezing fires.
 
Some one his song in Jove, and Jove's strange tales attires,
Broidered with bulls and swans, powdered with golden rain;
Another humbler wit to shepherd's pipe retires,
Yet hiding royal blood full oft in rural vein.
 
To some a sweetest plaint a sweetest style affords,
While tears pour out his ink, and sighs breathe out his words:
His paper pale despair, and pain his pen doth move.
I can speak what I feel, and feel as much as they,
 
But think that all the map of my state I display,
When trembling voice brings forth that I do Stella love.
 
 
SONNET 31
 
Trăng ơi trăng, vì sao trăng đi chậm
Trăng âm thầm để khuôn mặt buồn tênh
Có lẽ nào ở tận chốn cao xanh
Cũng có kẻ mang cung tên ra bắn?
 
Trong tình yêu ta cũng từng đau đớn
Trăng cũng như ta – những kẻ đang yêu
Ta đọc trong mắt đau khổ đã nhiều
Ta cảm nhận nỗi niềm trăng tuyệt vọng.
 
Ta là bạn bè trong điều bất hạnh
Hãy trả lời ta: có phải trên kia
Tình yêu chung thủy vẫn cứ dại khờ
Và người đẹp vẫn khinh khi, ngạo mạn?
 
Vẫn có những kẻ khinh người yêu mình?
Và gọi đức hạnh là sự vô ơn?
 
Sonnet 31
 
With how sad steps, O Moon, thou climb'st the skies!
How silently, and with how wan a face!
What, may it be that even in heav'nly place
That busy archer his sharp arrows tries!
 
Sure, if that long-with love-acquainted eyes
Can judge of love, thou feel'st a lover's case,
I read it in thy looks; thy languish'd grace
To me, that feel the like, thy state descries.
 
Then, ev'n of fellowship, O Moon, tell me,
Is constant love deem'd there but want of wit?
Are beauties there as proud as here they be?
Do they above love to be lov'd, and yet
 
Those lovers scorn whom that love doth possess?
Do they call virtue there ungratefulness?
 

Từ tác phẩm “Arcadia”
 
TÌNH ĐÍCH THỰC
 
Tình đích thực, tôi trao trái tim mình
Anh nhận về và tim anh trao lại
Anh giữ của tôi, tôi giữ của anh
Còn đổi trao nào đẹp hơn thế nữa.
 
Hai con tim sống một cuộc đời chung
Chính vì thế càng đủ đầy ý nghĩa
Anh yêu tình tôi như yêu chính mình
Tôi yêu anh vì tình tôi mong thế.
 
Ánh mắt tôi làm trái tim đau đớn
Của anh của tôi cùng một nỗi đau
Cả hai con tim cùng nhau chịu đựng
Vì hai con tim chia sẻ cho nhau.
 
Cả hai bị thương – niềm vui chỉ một
Chúng tôi trao nhau tình yêu đích thực.
 
My True Love Hath My Heart
(Song from Arcadia)
 
My true love hath my heart, and I have his,
By just exchange one for the other given:
I hold his dear, and mine he cannot miss;
There never was a bargain better driven.
 
His heart in me keeps me and him in one;
My heart in him his thoughts and senses guides:
He loves my heart, for once it was his own;
I cherish his because in me it bides.
 
His heart his wound received from my sight;
My heart was wounded with his wounded heart;
For as from me on him his hurt did light,
So still, methought, in me his hurt did smart:
 
Both equal hurt, in this change sought our bliss,
My true love hath my heart, and I have his.
 

Thơ tình Thomas Hardy

 


BIỆT LY
 
Trời đang đổ cơn mưa
Tiếng xạc xào cây lá
Anh đây – em đâu đó
Trăm dặm giữa hai ta.
 
Giá không vì tiết trời
Giá không vì đường dài
Làm cho ta ly biệt
Có lẽ chỉ nụ cười.
 
Nhưng cái điều ngăn cản
Làm ta phải biệt ly
Mạnh hơn gió, hơn mưa
Và dài hơn năm tháng.
1893
 
The Division
 
Rain on the windows, creaking doors,
With blasts that besom the green,
And I am here, and you are there,
And a hundred miles between!
 
O were it but the weather, Dear,
O were it but the miles
That summed up all our severance,
There might be room for smiles.
 
But that thwart thing betwixt us twain,
Which nothing cleaves or clears,
Is more than distance, Dear, or rain,
And longer than the years!
 
 
VĂN BIA CHO NGƯỜI BI QUAN
 
Tôi là Smith ở Stoke, ngoài sáu mươi
Sống thiếu đàn bà trong suốt cuộc đời
Giờ chỉ một điều ước mong ở Chúa
Giá mà bố tôi xưa cũng giống tôi.
 
Epitaph On A Pessimist
 
I'm Smith of Stoke aged sixty odd
I've lived without a dame all my life
And wish to God
My dad had done the same.
 
 


NGƯỜI MÀ ANH ĐÃ GIẾT
 
Giá mà gặp lại anh
Tôi sẽ ngồi chung bàn
Và cùng nhau rót rượu
Uống với nhau nhẹ nhàng.
 
Nhưng ở ngoài chiến trường
Khi xông lên đối mặt
Thì tôi đã giết chết
Anh ngay chỗ của mình.
 
Vâng, tôi đã bắn anh
Bởi vì anh là giặc
Không còn cách nào khác
Điều đó đã rõ ràng.
 
Có thể, anh cũng từng
Như tôi, không việc làm
Không còn nơi ẩn náu
Mới phải ra chiến trường.
 
Chiến tranh là chiến tranh!
Với người ta đã giết
Có lẽ rượu ta rót
Và chia sẻ chút tiền.
 
The Man He Killed
 
Had he and I but met
By some old ancient inn,
We should have set us down to wet
Right many a nipperkin!
 
But ranged as infantry,
And staring face to face,
I shot at him as he at me,
And killed him in his place.
 
I shot him dead because—
Because he was my foe,
Just so: my foe of course he was;
That's clear enough; although
 
He thought he'd 'list, perhaps,
Off-hand like—just as I—
Was out of work—had sold his traps—
No other reason why.
 
Yes; quaint and curious war is!
You shoot a fellow down
You'd treat, if met where any bar is,
Or help to half a crown.
 
 
ĐÊM THÁNG MƯỜI MỘT
 
Tôi để ý đổi thay
Thời tiết trên cửa kính
Khi cơn gió lay động
Đêm nửa tỉnh nửa mơ.
 
Rồi lá rơi vào phòng
Và lá rơi xuống giường
Cây có điều buồn bã
Muốn nói cùng bóng đêm.
 
Lá chạm vào tay tôi
Tôi nghĩ là em đến
Dường như em đang đứng
Và đã biết điều này!
 
A Night in November
 
I marked when the weather changed,
And the panes began to quake,
And the winds rose up and ranged,
That night, lying half-awake.
 
Dead leaves blew into my room,
And alighted upon my bed,
And a tree declared to the gloom
Its sorrow that they were shed.
 
One leaf of them touched my hand,
And I thought that it was you
There stood as you used to stand,
And saying at last you knew!
 
 

NHÀ THƠ
 
Ánh mắt nhìn nghiêm khắc và kiêu hãnh
Trí tuệ của anh như muốn nói rằng
Anh không cần bữa tối với rượu vang
Và không cần những bàn ăn tự chọn.
 
Tôn vinh của người đời không cần đến
Quyền lực, vinh quang, giàu có không cần
Không cần người hành hương từ xa xăm
Tò mò ghé đến nhà anh thăm viếng.
 
Nhưng khi anh đã đi hết cuộc đời
Và cho bạn người ta mang tin đến
Thì buổi hoàng hôn, giữa trời chạng vạng
Hãy ghé mồ anh và nói những lời:
 
“Dù thơ anh hay dở, nhưng trên đời
Từng yêu anh có hai người phụ nữ”.
Bạn hãy đứng và nói lúc tối trời:
Lời khen cho anh thế này là đủ.
 
A Poet
 
Attentive eyes, fantastic heed,
Assessing minds, he does not need,
Nor urgent writs to sup or dine,
Nor pledges in the roseate wine.
 
For loud acclaim he does not care
By the august or rich or fair,
Nor for smart pilgrims from afar,
Curious on where his hauntings are.
 
But soon or later, when you hear
That he has doffed this wrinkled gear,
Some evening, at the first star-ray,
Come to his graveside, pause and say:
 
'Whatever his message his to tell
Two thoughtful women loved him well.'
Stand and say that amid the dim:
It will be praise enough for him.

  

Thơ tình John Gay

 



TRÍCH TỪ “VỞ OPERA CỦA GÃ ĂN MÀY”
 
Màn 1, cảnh 7
 
Cô gái trẻ trong độ tuổi thanh xuân
Giống như bông hoa nở giữa cánh đồng
Cả bầy ong đùa chơi và vỗ cánh
Và đàn bướm vui vẻ lượn xung quanh
Nhưng sau đó người cắt hoa để bán
Mang ra khu chợ Covent-Garden
Đến khi hoa héo dần rồi héo hẳn
Hoa bốc mùi, người vứt xuống bàn chân.
 
Beggar's Opera, Act 1, Scene 7
 
Virgins are like the fair Flower in its Lustre,
Which in the Garden enamels the Ground;
Near it the Bees in play flutter and cluster,
And gaudy Butterflies frolick around.
But, when once pluck’d, ’tis no longer alluring,
To Covent-Garden ’tis sent (as yet sweet),
There fades, and shrinks, and grows past all enduring,
Rots, stinks, and dies, and is trod under feet.
 
 

Màn 2, cảnh 22
 
Tuổi trẻ là thời để vui chơi
Là thời để tận hưởng tình yêu
Tình yêu ta được trời ban tặng
Thì ta phải tận hưởng thật đầy
Một khi sức ta còn có thể
Thưởng thức vẻ đẹp của hoa này.
 
Tập tành, uống rượu ngay hôm nay
Đừng bao giờ nói để ngày mai
Tình yêu, tuổi trẻ bay như lướt
Đừng cho uổng phí tháng ngày trôi
Nào cùng uống rượu và nhảy nhót
Tình yêu ra đi cùng tuổi tác
Xuân đi không trở lại trong đời.
 
Beggar's Opera, Act 2, Scene 22
 
Youth’s the Season made for Joys,
Love is then our Duty,
She alone who that employs,
Well deserves her Beauty.
Let’s be gay,
While we may,
Beauty’s a Flower, despis’d in Decay.
 
Let us drink and sport to-day,
Ours is not to-morrow.
Love with Youth flies swift away,
Age is nought but Sorrow.
Dance and sing,
Time’s on the Wing.
Life never knows the Return of Spring.
 
 
THƠ MỘ CHÍ CHO MÌNH
 
Cuộc đời ta giống như một trò hề
Trước nghĩ vậy, nhưng giờ mới nhận ra
 
Epitaphs on himself
 
Life is a jest, and all things show it,
I thought so once, but now I know it.