Thứ Năm, 18 tháng 6, 2020

Thơ tình Cherubina de Gabriak


ANH CÒN NHỚ VƯỜN XƯA

Anh còn nhớ vườn xưanơi lần đầu tiên
Anh thổ lộ với em trong một ngày đầy nắng
Những cây thông nonnhững cây đoạn dịu dàng
Trải lên cát chiếc bóng dài đứt quãng.

Đ
ấy chỉ một khoảnh khắc và rồi vụt biến
Anh cầm tay em – em rảo bước cùng anh
Ngày tháng bảy với ta mỉm cười âu yếm
Hai đứa mình – anh  trong trái tim em.


Anh còn nhớ vườn xưabây giờ hoa lại nở
Như ngày ấy trong mơ cho hai đứa chúng mình
Nhưng lời đã quênlời hạnh phúc ngày cũ
Thì anh đã đã không còn nhắc lại cùng em.


Ты помнишь старый сад


Ты помнишь старый сад, где ты сказал впервые

Мне про любовь свою в июльский светлый день,
И ветви нежных лип, и сосны молодые
Бросали на песок прерывистую тень.

То был лишь миг один, и скоро он промчался.

Ты руку взял мою, — мы шли с тобой вдвоем, —
И день, июльский день, нам нежно улыбался,
И были мы одни, — ты в сердце был моем.

Ты помнишь старый сад, теперь цветет он снова,

Как некогда он цвел для нас в блаженном сне, —
Но тех забытых слов, слов счастия былого
Ты не повторишь мне.


GỬI MAKOVSKY


Những bông hoa của anh… những bông hoa từ người bạn
Những bông hoa Tây Ban Nha yêu dấu của em.
Em khoanh chúng bằng đường giới hạn tròn
Một giấc mơ của mình rất sầu thảm.


Em làm say mê bằng ánh mắt đau buồn
Mười hai bông hoa cẩm chướng đang rực lửa
Đ
 trước mắt embên những bông hoa đó
Từ bóng tối hiện về hình bóng của anh.


Và em sẽ nói…  khôngkhông cần
Vì em không biết đến những lời lặng lẽ.
Và trong giây phút này em rất vui vẻ
Trước vẻ lặng im của hoa cẩm chướng dịu dàng.


Твои цветы... цветы от друга


   С. Маковскому


Твои цветы... цветы от друга,

Моей Испании цветы.
Я их замкну чертою круга
Моей безрадостной мечты.

Заворожу печальным взглядом

Двенадцать огненных гвоздик,
Чтоб предо мною с ними рядом
Из мрака образ твой возник.

И я скажу... но нет, не надо,-

Ведь я не знаю тихих слов.
И в этот миг я только рада
Молчанью ласковых цветов.

NHỮNG BÔNG HOA MÀU TÍM

Những bông hoa gia sấy khô màu tím
Mà mỗi ngày anh mang đến tặng em
Ô
i những bông hoa ngây thơ sầu thảm
Những bông hoa của mối tình anh!

Đ
ầu óc mê muội của anh không hiểu
Khoa học thanh taotinh tế của tình
Cái miệng nhỏ của em làm cho méo
Cả nụ cười chán ngắt của em.


Anh đã từng say mê dịu ngọt
Thuốc độc xưa của những hồn em
Nhưng em bằng ánh mắt mỏi mệt
Làm tàn phai những bông hoa không cần.


Темно-лиловые фиалки


Темно-лиловые фиалки

Мне каждый день приносишь ты;
О, как они наивно жалки,
Твоей влюбленности цветы.

Любви изысканной науки

Твой ум ослепший не поймет,
И у меня улыбкой скуки
Слегка кривится тонкий рот.

Моих духов старинным ядом

Так сладко опьянился ты,
Но я одним усталым взглядом
Гублю ненужные цветы.


DÙ Ở NƠI NÀO


Dù ở nơi nào ta bắt đầu gặp gỡ

Thì kết thúc cũng không phải ở đây!
Từ hồn em anh lấy đi ít quá
Anh đã cháy hết đâu!

Em và anh cứ lặng im, cứ im lặng dần dần

Chẳng lẽ về nguồn của bóng đêm đi tiếp?
Ô, nếu như mình không sáng hơn tia chớp
Thì điều gì sẽ xảy giữa em với anh?

Nếu ta là hai ngọn lửa, hai chén nước đầy

Thì với nỗi buồn nào đang nhìn ta Thượng Đế…
Dù ở nơi nào ta bắt đầu gặp gỡ
Thì kết thúc cũng không phải ở đây!
1921

Где б нашей встречи ни было начало


Где б нашей встречи ни было начало,

Ее конец не здесь!
Ты от души моей берешь так мало,
Горишь еще не весь!

И я с тобой всё тише, всё безмолвней.

Ужель идем к истокам той же тьмы?
О, если мы не будем ярче молний,
То что с тобою мы?

А если мы два пламени, две чаши,

С какой тоской глядит на нас Творец...
Где б ни было начало встречи нашей,
Не здесь - ее конец!



EM HÔN VÀ BIẾT RÕ


Em hôn và biết rõ

Rằng môi anh ngọt ngào
Môi kề môi trao nhau
Chẳng lỗi lầm gì cả.

Bờ môi từ nụ hôn

Càng dịu dàng, thắm đỏ
Vì sao anh thô lỗ
Nói những lời về em.

Giờ đã tắt bốn năm

Ngọn lửa đôi mắt xám
Ngọt hơn rượu, mật ong
Những giờ mình hò hẹn. 

Anh còn nhớ bông hồng

Mọc trong tuyết, trên cổng
Em đã làm anh giận
Sao anh có thể tin.
1925

Да, целовала и знала


Да, целовала и знала

губ твоих сладких след,
губы губам отдавала,
греха тут нет.

От поцелуев губы

только алей и нежней.
Зачем же были так грубы
слова обо мне.

Погас уже четыре года

огонь твоих серых глаз.
Слаще вина и меда
был нашей встречи час.

Помнишь, сквозь снег над порталом

готической розы цветок,
Как я тебя обижала,
как ты поверить мог.


NGƯỜI TA ĐÓNG CỬA NHÀ TÔI


Người ta đóng cửa nhà ở của tôi

Và chìa khóa đã đánh mất mãi mãi
Thiên thần đen, thần hộ mệnh của tôi
Đứng trước cửa với thanh gươm sáng chói.

Nhưng vương miện và chiếc ngai màu đỏ

Nỗi buồn của tôi đã chẳng nhìn ra
Và ở trên một ngón tay thiếu nữ
Chiếc nhẫn của Solomon bằng thừa*. 

Bóng tối của tôi không hề tỏa sáng

Bằng niềm tự hào của ngọc ru-bin
Bằng dấu vết xưa của ta tôi nhận
Tên thánh thiêng liêng của vị Minh thần.
1909
__________
*Nhẫn của Solomon – theo truyền thuyết vua Solomon có chiếc nhẫn với dòng chữ: “Tất cả rồi sẽ qua”. 

Замкнули дверь в мою обитель


Замкнули дверь в мою обитель

навек утерянным ключом,
и черный Ангел, мой хранитель,
стоит с пылающим мечом.

Но блеск венца и пурпур трона

не увидать моей тоске,
и на девической руке -
ненужный перстень Соломона.

Не осветит мой темный мрак

великой гордости рубины...
Я приняла наш древний знак
святое имя Черубины.


CHỈ MỘT LẦN


Chỉ một lần, em như cây dương xỉ

Nở hoa màu lửa, say giữa đêm xuân… 
Anh hãy đi theo em đến giữa rừng
Vòng tử thù, đến với em, hãy xé. 

Hãy yêu em. Em với anh rất gần.

Hãy nhường nhịn cho tình em hư hỏng
Em như hạnh đào – chết chóc, cay đắng
Dịu dàng hơn cái chết, dối gian hơn.
1909

Лишь раз один, как папоротник, я


Лишь раз один, как папоротник, я

цвету огнем весенней, пьяной ночью...
Приди за мной к лесному средоточью,
в заклятый круг, приди, сорви меня.

Люби меня. Я всем тебе близка.

О, уступи моей любовной порче.
Я, как миндаль, смертельна и горька,
нежней чем смерть, обманчивей и горче.


CON TIM CỦA EM


Con tim của em như chiếc chén

Chén đựng rượu vang
Chính vì thế cuộc gặp của chúng mình
Không đầy đặn.

Trên tất cả mọi con đường em hái

Những bông hoa dành để tặng anh
Nhưng mà hoa của em ít ỏi
Anh thấy không. 

Vòng hoa của em nghèo nàn

Anh hãy đem xé toạc!
Hãy nhìn xem, vòng hoa tái nhợt
Thiếu tình. 

Con tim vỡ và tim máu đẫm

Con tim như thủy tinh.
Tất cả chỉ qua một cuộc tình
Là hết hạn. 
1907

Мое сердце - словно чаша


Мое сердце - словно чаша

Горького вина,
Оттого, что встреча наша
Не полна.

Я на всех путях сбирала

Для тебя цветы,
Но цветы мои так мало
Видишь ты.

И венок, венок мой бедный

Ты уж сам порви!
Посмотри, какой он бледный
Без любви.

Надломилось, полно кровью

Сердце, как стекло.
Все оно одной любовью
Истекло.


BẠN HÃY LẮNG NGHE


Bạn hãy lắng nghe một giấc mơ đêm

Và nhớ đừng bỏ qua ngôi sao rụng…
Trên đường phố bằng chiếc bóng vô hình
Tôi sẽ đi theo sau bạn…

Bạn nhìn xem (tôi uể oải trên sa mạc

Ở rất xa những nơi chốn thân thương…)
Nước trên sông Nê-va giờ có còn xanh?
Trên tay Thiên thần vẫn còn cây thập ác?
1928

Прислушайся к ночному сновиденью


Прислушайся к ночному сновиденью,

не пропусти упавшую звезду...
по улицам моим Невидимою Тенью
я за тобой пройду...

Ты посмотри (я так томлюсь в пустыне

вдали от милых мест...):
вода в Неве еще осталась синей?
У Ангела из рук еще не отнят крест?


NHỮNG CON CHIM ĐEN BAY GIỮA TRỜI


Những con chim đen bay giữa trời

Cả ban ngày, buổi sáng
Còn đêm, trong giấc mộng
Tôi mơ thấy mình sắp chết đến nơi.

Thậm chí người ta gửi đến chưa lâu

Những giấc mơ thứ sáu – giấc mơ thật –
Một sứ giả đến từ nơi hạnh phúc –
Một vị thần có đôi mắt đen màu.

Và ngài bước đến bên giường của tôi

Rồi mỉm cười: “Ái chà, sao thế nhỉ
Ở bên chúng tôi hoa lan đã nở
Còn ngươi thì vẫn còn ở nơi đây?

Khi nào thì đến làm khách chúng tôi

Và làm khách ở có lâu không vậy?...”
Rồi sau đấy ngài lấy ra cây sáo
Được làm từ xương đặt lên môi tôi.

Đôi môi của tôi tái nhợt

Từ cái ngày này.
Chỉ cần sao cho hoa lan xinh đẹp
Sẽ không nở hoa nếu chẳng có tôi!
1926

Все летают черные птицы


Все летают черные птицы

И днем, и поутру,
А по ночам мне снится,
Что я скоро умру.

Даже прислали недавно —

Сны под пятницу — верные сны,—
Гонца из блаженной страны —
Темноглазого легкого фавна.

Он подошел к постели

И улыбнулся: «Ну, что ж,
У нас зацвели асфодели,
А ты все еще здесь живешь?

Когда ж соберешься в гости

Надолго к нам?..»
И флейту свою из кости
К моим приложил губам.

Губы мои побледнели

С этого самого дня.
Только бы там асфодели
Не отцвели без меня!


ĐÂU MINH THẦN


Đâu Minh thần, tên được đặt cho tôi

Dấu hiệu của tôi trong ngày tháng cũ
Những cánh đồng nào có hoa tím nở
Đã chạm lên bằng đôi cánh của ngươi?

Và trong đôi mắt ai

Ngươi lại thắp lên ngọn lửa
Và trong đôi tay ai
Phấp phới lá cờ mà ngươi đã mở?

Và bằng giọng nói của mình

Những miệng nào nói ra lời cay đắng?
Giờ ngươi dẫn dắt ai, làm cho nổi tiếng?
Xin hãy nói cùng tôi, hở Minh thần. 

Và linh hồn nào đi theo đường quen

Của một trò chơi nhức nhối?
Vì ngươi từng đốt thành phố Sodom*
Bằng lửa cuối!
1925
____________
*Sodom là một trong hai thành phố (Sodom và Gomorrah), theo Kinh Thánh, bị Chúa Trời hủy diệt vì tội trác táng (quan hệ tình dục trái với tự nhiên). 

Где Херувим, свое мне давший имя


Где Херувим, свое мне давший имя,

Мой знак прошедших дней?
Каких фиалковых полей
Касаешься крылами ты своими?

И в чьих глазах

Опять зажег ты пламя,
И в чьих руках
Дрожит тобой развернутое знамя?

И голосом твоим

Чьи говорят уста, спаленные отравой?
Кого теперь, кого ведешь за славой?
Скажи мне, Херувим.

И чья душа идет путем знакомым

Мучительной игры?
Ведь это ты зажег у стен Содома
Последние костры!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét