Thứ Tư, 17 tháng 6, 2020

Thơ tình Stanisław Lec


Trích tác phẩm Những ý nghĩa không trau chuốt

* Nie znajac obcego jezyka nie zrozumiesz nigdy milczenia cudzoziemcow.
Không biết tiếng nước ngoài thì bạn không bao giờ hiểu được sự im lặng của người ngoại quốc.

* Zyc jest bardzo niezdrowo. Kto zyje ten umiera.
Sống là có hại cho sức khỏe. Ai sống – người đó chết.

* Koniom i zakochanym inaczej pachnie siano.
Đối với những kẻ yêu nhau và những con ngựa, mùi cỏ khô nghe rất khác nhau.

* Gdy zapachniaіy fioіki, rzeklo іajno: "No cуz, dziaіaja tanim kontrastem!"
Khi hoa tím tỏa mùi hương thì phân trong chuồng nói rằng: “Chúng nó làm việc theo hợp đồng giá rẻ”.

* Tylko wtedy mozna interesowac sie gownem, gdy jest nawozem.
Người ta chỉ quan tâm đến cứt khi nó thực sự là phân.

* I brak precedensu jest precedensem.
Sự thiếu tiền lệ là tiền lệ.

* Z raju wygnano przeciez jedynie Adama i Ewe. A jak sie stamtad wydostaly na wolnosc lwy, orly, malpy, pchly itd. A nawet jablka?
Chỉ Adam và Eva bị đuổi khỏi thiên đàng. Thế làm sao mà đại bàng, sư tử, khỉ, bọ chét… cũng thoát ra được. Thậm chí cả những quả táo?!

* Gdy krzykna: "Niech zyje postep!" - pytaj zawsze: "Postep czego?"
Nếu nghe người ta hô: “Sự tiến bộ muôn năm!” – thì bạn hãy hỏi xem: “Sự tiến bộ của cái gì?”

* Pion z poziomem maja z soba krzyz.
Chiều thẳng đứng và chiều ngang làm thành cây thập ác.

* Bosy nie stapa po rozach.
Chân trần không đi trên hoa hồng

* Okno na swiat mozna zaslonic gazeta.
Cửa sổ nhìn ra thế giới có thể dùng báo để che lại.

* To, ze umarі, nie jest jeszcze dowodem, ze zyl.
Cái chết không phải là sự chứng minh rằng anh đã sống.

* Jak pies sluzyl, jak psa ubili.
Hắn đã phục vụ như chó và bị người ta giết như chó.

* Bezsilna wscieklosc dokonuje cudow.
Sự điên cuồng bất lực sinh ra điều kỳ diệu.
* Wiecznosc? Jednostka czasu.
Vĩnh hằng là một đơn vị tính thời gian.

*Prawdziwy wrog nigdy cie nie opusci.
Kẻ thù đích thực của bạn không bao giờ bỏ rơi bạn.

* Sumienie rodzi sie czasem z jego wyrzutow.
Đôi khi lương tâm sinh ra do sự cắn rứt lương tâm.

*Kazdy wiek ma swoje sredniowiecze.
Mỗi thế kỷ đều có thời trung cổ của mình.

* Owca, co miala zlote runo, nie byla bogata.
Con cừu có bộ lông vàng chưa bao giờ giàu.

* Gdy plotki sie starzeja, staja sie mitami.
Huyền thoại là những điều đơm đặt cổ xưa. (Khi chuyện đơm đặt về già, chúng trở thành huyền thoại).

* I pomyslec, ze na tym ogniu, kktory ukradl Prometeusz bogom, spalono Giordana Bruno!
Cần suy nghĩ! Cái ngon lửa mà Prometheus ăn cắp của các vị thần, người ta đã dùng để thiêu sống Giordano Bruno!

* Czasem diabel mnie kusi, by uwierzyc w Boga.
Đôi khi quỉ sứ làm tôi tin vào Chúa.

* Zwracaj sie zawsze do bogow obcych. Wysluchja cie poza kolejka.
Nên cầu nguyện Bụt không phải chùa nhà. Họ để ý nghe bạn trước.

* Kto w piekle mial szlify - i w niebie nosi akselbanty.
Ai ở địa ngục từng có cầu vai thì người đó trên thiên đàng dây tua sẽ có.

* Idealisci pragna materializacji duchow.
Những kẻ duy tâm ao ước được vật chất hóa tinh thần.

* Cen slowa! Kaazde moze byc twoim ostatnim.
Hãy quí lời! Anh không biết lời nào là lời cuối của anh đâu.

* Strzezcie sie tych botanikow, co twierdza, ze drzewo poznania rodzi korzenie zla.
Hãy coi chừng những nhà thực vật học nói rằng nguồn gốc của cái ác là từ cây nhận thức.

* Nie badz snobem. Nie klam nigdy, gdy prawda sie lepiej oplaca.
Chớ phù phiếm! Đừng bao giờ nói dối một khi sự thực có lợi hơn.

* Tam gdzie smiecg wzbroniony, zwykle i plakac nie wolno.
Nơi người ta cấm tiếng cười thì khóc cũng không được phép.

* Mowie rzeczy tak stare, ze ludzkosc juz ich nie pamieta.
Tôi nói những điều xưa cũ mà loài người đã không còn nhớ.

* Jak cwiczyc pamiec, by umiec zapominac?
Làm sao luyện được trí nhớ để học quên.

* Sa czasy, kiedy ludzie mowiac przez sen, klamia.
Có một thời mà người ta nói dối cả trong giấc ngủ.

* Gdy sie mit zamienia w rzeczywistosc, czyje to zwyciestwo - materialistow, czy idealistow?
Khi truyền thuyết trở thành hiện thực thì ai thắng: những kẻ duy tâm hay duy vật?

* Stosy nie rozswietlaja ciemnosci.
Lửa trại không xua được bóng đêm

* Slepej wierze zle patrzy z oczu.
Lòng tin mù quáng có đôi mắt độc.

* I Judasze nauczyli sie nosic krzyze.
Những kẻ phản bội (Giu-đa) cũng học cách vác cây thập ác của mình

* Zeby byc soba, trzeba byc kims.
Để trở thành chính mình thì cần trở thành một ai đó.

* "Jak nalezy sie zachowac"- pytal mnie moj znajomy - "gdy znajdzie sie u siebie przyjaciela zony w lozku z obca kobieta?"
“Biết xử sự thế nào – một người quen của tôi hỏi – nếu như gặp trong nhà mình người tình của vợ mình đang trên giường cùng một phụ nữ xa lạ?”

* Chcialem powiedziec swiatu tylko jedno slowo. Poniewaz tego nie potrafilem, stalem sie pisarzem.
Tôi muốn nói với thiên hạ một lời. Nhưng vì không làm được điều này nên đã trở thành nhà văn.

* Zmartwychwstac moga jedynie trupy. Zywym trudniej.
Chỉ người chết có thể hồi sinh. Người đang sống khó hơn nhiều.

* Gdy nie ma sie z czego smiac, rodza sie satyrycy.
Khi không có gì để cười thì các nhà văn trào phùng được sinh ra.

* "Jestem poeta jutra!" powiedzial. "Pomowiny o tym pojutrze!" odrzeklem.
Anh ta nói: “Tôi là nhà thơ của ngày mai!”. Tôi trả lời: “Ngày kia ta sẽ nói chuyện này”.

* Wszystkie wielkie tragedie maja happy end, ale ktoz potrafi wysiedziec do konca!
Tất cả những bi kịch vĩ đại đều kết thúc có hậu, nhưng ai mà ngồi được đến cùng!

* Pierwszy rzuc kamieniem, inaczej nazwa cie epigonem.
Hãy là người ném đá đầu tiên, nếu không người ta sẽ gọi bạn là kẻ hậu bối.

* Ktoz bada na policzku odciski palcow?
Có ai đi tìm dấu tay sau cái tát bao giờ?

* Postep: praszczurowie nasi w skorach zwierzecych chodzili, nam juz w ludzkiej nieswojo.
Sự tiến bộ: ông cha chúng ta mặc áo quần da thú, còn ta mặc của người mà cảm thấy ngại ngùng.

* Czy wolno mijac sie z prawda? Tak, jesli sie ja wyprzedza.
Liệu có thể đoạn tuyệt với sự thật? Vâng, nếu như bạn đi trước nó.

* Kiedy rodzi sie pesymizm? Gdy zetkna sie dwa odmienne optymizmy.
Chủ nghĩa bi quan sinh ra khi nào? Khi mà hai chủ nghĩa lạc quan khác nhau va chạm.

* A moze mury Jerycha padly od zbytniego decia w fanfary wewnatzr tych murow?
Biết đâu, những bức tường của Jericho bị đổ vì tiếng kèn đồng từ phía bên trong?

* Zebyz miec tylu sluchaczy, ilu podsluchujacych!
Giá mà người nghe cũng đông như người nghe trộm.

* Lubimy, zeby nasz wewnetrzny glos dochodzil nas z zewnatrz.
Ta yêu để cho tiếng nói bên trong ta đến từ bên ngoài.

* Uwazaj: gdy slawa rzuca blask na ciebie, twoi wrogowie maja przewage - czyhaja w cieniu.
Hãy cẩn thận: khi bạn ở trong ánh hào quang thì kẻ thù của bạn có ưư thế là họ ẩn trong bóng tối.

* W niebezpiecznych czasach nie wchodz w siebie, tam cie najlatwiej znajda.
Thời buổi khốn khó chớ đi vào ẩn náu ở trong mình, nơi đó người ta tìm ra bạn dễ dàng hơn.

* Szatani dziela sie na upadlych aniolow i na awansowanych ludzi.
Quỉ sứ chia thành hai loại: những thiên thần đổ đốn và những người được đề cao.

* Ci, co maja szersze horyzonty, maja zazwyczaj gorsze perspektywy.
Viễn cảnh của người ta càng rộng thì tương lai càng hẹp.

* Blad staje sie bledem, gdy rodzi sie jako prawda
Sai lầm sẽ trở thành sai lầm nếu khi sinh ra đã là chân lý.

* Wszystko jest w rekach czlowieka. Dlatego nalezy je myc czesto.
Tất cả ở trong tay người. Bởi thế cần rửa tay thường xuyên.

* Fakt zawsze bedzie nagi, chocby ubrany byl wedlug najnowszej mody.
Thực tế luôn trần truồng dù cho có mặc quần áo thời trang.

* Snil mi sie koszmar: Przerost biurokracji w panstwie, gdzie niedawno ukonczono likwidacje analfabetyzmu.
Tôi mơ thấy điều khủng khiếp: bệnh quan liêu hoành hành ở quốc gia mà người ta vừa diệt xong giặc dốt.

* Glupota jest matka zbrodni. Ale ojcowie sa czesto genialni.
Mẹ của tội ác là sự dốt nát. Nhưng đôi khi cha của nó là thiên tài.

* Trzeba tak pomnozyc mysli, by nie starczylo dla nich dozorcow.
Cần nhân số lượng ý nghĩ đến mức không có đủ người kiểm soát chúng.

* Piekne klamstwo? Uwaga! To juz tworczosc.
Sự giả dối mà đẹp? Thì đấy đã là một sự sáng tạo.

* Nielatwo jest zyc po smierci. Czasem trzeba na to stracic cale zycie.
Không dễ dàng sống sau khi chết. Đôi khi vì điều này mà phải trả giá cả cuộc đời.

* Otyli zyja krocej. Ale jedza dluzej.
Những người béo phì sống không lâu. Nhưng họ ăn nhiều hơn.

* Nawet w jego milczeniu byly bledy jezykowe.
Anh ta mắc lỗi ngữ pháp cả khi im lặng.

* Ona? Nawet okulista nie wyczytalby w jej oczach niczego wiecej niz trzy dioptrie.
Trong đôi mắt nàng ngay cả bác sĩ nhãn khoa cũng không đọc được điều gì ngoài ba đi-ốp.

* Kto ma dobra pamiec, temu latwiej o wielu rzeczach zapomniec.
Ai có trí nhớ tốt, người đó dễ dàng quên nhiều thứ.

* Roze pachna zawodowo.
Hoa hồng tỏa mùi hương một cách chuyên nghiệp.

* Pocalunek Judaszow zamyka usta poetom.
Nụ hôn của kẻ phản bội làm nhà thơ ngậm miệng.

* Tempo! Tempo! Mozna czasem przezyc zycie w jednym dniu. Ale co zrobic z pozostalym czasem?
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Có thể sống cả cuộc đời trong một ngày.
Nhưng mà rồi biết làm gì với thời gian còn lại?

* Nie odwraca sie tylem od rzeczywistosci? Czyzby rzeczywistosc nie
otaczla nas zewszad? Oh!
Đừng quay lưng lại với thực tại ư? Cứ làm ra vẻ như thực tại không vây quanh ta từ mọi phía.

* Zdarza sie, ze chorazy wieje w inna strone niz sztandar.
Người mang cờ đi về hướng khác với lá cờ.

* Mozna otworzyc usta z zachwytu, by zamknac je ziewnieciem.
Có thể há hốc miệng vì kinh ngạc và ngậm miệng lại sau cái ngáp.

* A moze jestesmy jedynie czyims wspomnieniem?
Có thể, ta chỉ là hoài niệm của ai đấy?

* Nie kazdy umie tanczyc do muzyki przyszlosci.
Không phải ai cũng biết nhảy theo điệu nhạc của tương lai.

* Gdy z radosci podskoczysz do gory, uwazaj, by ci ktos ziemi spod nog nie usunal.
Khi bạn nhảy lên vì sung sướng thì hãy để ý xem có ai đào đất ở dưới chân của bạn không.

* Dwie linie rownolegle spotkaja sie w nieskonczonosci - i one w to wierza.
Hai đường thẳng song song sẽ gặp nhau ở vô cùng – chúng vẫn tin như vậy.

* Milosc ojczyzny nie zna granic cudzych.
Tình yêu Tổ quốc không có biên giới.

* Z wielkiej chmury - maly cien? To dziwne!
Một chiếc bóng nhỏ từ đám mây lớn? Thật lạ lùng!

* Sa tacy, co nigdy nie mieli nadziei, i tacy, co wiecznie ja traca.
Một số người chưa bao giờ có những niềm hy vọng, một số khác thì để mất nó mãi mãi.

* Jedni chcieliby zrozumiec to, w co wierza, drudzy uwierzyc w to, co rozumieja.
Một số người này muốn hiểu cái mà người ta tin, còn một số người kia thì tin vào cái mà người ta hiểu.

* Zaludnic swiat jest latwo. Wyludnic swiat jest latwo. Wiec gdzie trudnosc?
Làm cho thế giới đông dân là việc dễ dàng. Làm cho thế giới hoang tàn – còn dễ dàng hơn. Vậy thì đâu là điều khó?

* Samowystarczalni umyslowo sa jedynie geniusze i glupcy.
Chỉ có những thiên tài và những thằng ngu là độc lập về trí tuệ.

* Po stracie zebow podobno wieksza swoboda jezyka.
Nghe nói rằng người bị mất răng thì lưỡi tự do hơn.

* Istniej idealny swiat bez klamstwa, gdzie wszystko jest prawdziwe.
Có một vương quốc lừa dối, nơi mọi thứ có vẻ đều chân thật.

* Tragizm epoki oddaje jej smiech.
Bi kịch của một thời đại được thể hiện trong tiếng cười của thời đại đó.

* Sumienie mial czyste. Nieuzywane.
Lương tâm của anh ta hòan tòan trong sạch. Chưa dùng đến bao giờ.

* Zycie czlowieka konczy sie czasem cudza smiercia.
Nhiều kẻ chưa từng sống cuộc đời mình, họ muốn hưởng cái chết của người khác.

* Zadaje pytania wymijajace, by przeciac droge wymijajacym odpowiedziom.
Tôi đưa ra những câu hỏi loanh quanh để tránh những câu trả lời lảng tránh.

* Nie odstawaj od czasu, bo zranisz tych, co go glaszcza.
Đừng rớt lại sau thời gian kẻo lại làm phật lòng những kẻ chạy đua với nó.

* Niektorzy przerastaja innych o glowe, ktora im odrabali.
Có những kẻ cao hơn những người khác một cái đầu mà chúng đã chặt của họ.

* Legendy burza czesto zadni jej surowca.
Truyền thuyết phá hủy những kẻ đi tìm nguồn gốc của nó.

* Czasem kara pociaga za soba wine.
Đôi khi tội ác là kết quả của sự trừng phạt.

* Boje siк anioіуw, sa dobrzy, zgodza siк byc szatanami.
Tôi sợ thiên thần, vì thiên thần quá dễ thương, sẽ dễ dàng bị người ta gạ trở thành quỉ sứ.

* Szatan musi byc okrutny, zbyt malo czasu daly mu Ewangelie.
Quỉ Sa-tăng phải độc ác. Phúc âm cho nó quá ít thời gian.

* Nawet gdy usta zamknieta, pytanie pozostaje otwarte.
Ngay cả khi ta ngậm miệng thì vấn đề vẫn bỏ ngỏ.

* Bada sie glebie rzucajac w nia kamieniem.
Hãy ném viên đá vào đáy nếu bạn muốn biết độ sâu.

* Po prostu wierzyc sie nie chce, ze klamstwo istnialo przed wynalezieniem druku.
Thật khó mà tin được rằng sự giả dối đã tồn tại trước khi người ta sáng chế ra máy in sách.

* Z czego powstales zalezy od genetyki - w co sie obrocisz, od polityki.
Bạn sinh ra từ đâu, điều này phụ thuộc vào di truyền học, còn bạn trở thành gì – điều này phụ thuộc vào chính trị.

* Ludzie dawniej byli blizsi sobie. Musieli. Bron nie niosla daleko.
Ngày xưa con người ta gần gũi nhau hơn vì họ chưa có vũ khí tầm xa.

* Czasem zbrodnia jest wlasnie alibi.
Đôi khi tình trạng ngoại phạm (alibi) là tội ác.

* Jakze wielu chcialoby siebie samych opuscic w chwilach grozy.
Có khối kẻ muốn đánh mất mình trong lúc nguy hiểm.

* Bolesny jest porod czlowieka, zwlaszcza gdy rodzi siebie sam w wieku
doroslym.
Sinh nở là quá trình đau đớn, đặc biệt là ở tuổi trưởng thành.

* Historia - zbior faktow, ktore nie musialy zajsc.
Lịch sử là tập hợp những sự kiện không đáng xảy ra.

* W historii i fakty nie dokonane sie licza.
Những sự kiện chưa từng xảy ra đều có ý nghĩa đối với lịch sử.

* Pieniadz jest bezwonny, ale siк ulatnia.
Tiền không có mùi nhưng có cánh.

* Trzecia strona medalu? Piers, ktуrej dotyka.
Mặt thứ ba của huân chương ư? Là bộ ngực mà nó đeo vào.

* I cudzy analfabetyzm utrudnia pisanie.
Sự vô học của người khác làm khó nhà văn.

* Nie nalezy wyciagac konsekwencji z blota.
Đừng đi bới rác rưởi để tìm kết luận.

* Dno jest dnem, nwet jesli jest obrocone do gory.
Đáy vẫn cứ là đáy cả khi tất cả đều ở phía trên.

* Czy wyobrazacie sobie kobietк, ktуra daіaby swojemu oblubieсcowi opowiadac przez 1001 nocy bajeczki?
Liệu bạn có thể hình dung mình là người phụ nữ cho phép người tình kể chuyện trong 1001 đêm?

* Nie wysylajcie daltonistow po niebieskie migdaly. Moga wrocic z niczym.
Đừng phái những kẻ bị mù màu đi bắt chim xanh. Họ sẽ trở về tay không đấy.

* Dlaczego pisze takie krotkie fraszki? Bo slow mi brak!
Tại vì sao tôi viết ngắn ư? Tại vì không đủ lời để viết!

* Powiedz mi z kim sypiasz, a powiem ci o kim snisz.
Hãy nói cho tôi biết bạn ngủ với ai, tôi sẽ nói bạn mơ về ai.

* I tylki nosza maski. Ze zrozumialych powodow.
Và mông cũng đeo mặt nạ. Nguyên nhân dễ hiểu.

* Jesli podoba ci sie worek, kup go razem z kotem, ktorego chcieli w nim sprzedac.
Nếu bạn thích cái bao tải thì hãy mua nó cùng với con mèo mà người ta bỏ trong bao ấy.

* Czasem nawet glupi but pozostawia po sobie niezniszczalny slad.
Lắm khi chiếc giày của người ngu để lại dấu vết không phai mờ được.

* Pisarze, nie atramentem, krwia nalezy pisac! Ale nie cudza!
Nhà văn đừng viết bằng mực mà bằng máu! Nhưng không phải của người khác!

* Strzezcie sie tematow od ktorych nie mozna uciec!
Hãy coi chừng những kẻ mà rồi sau không thoát khỏi người ta.

* W kazdym kraju inaczej brzmi pytanie Hamleta.
Câu hỏi của Hamlet ở mỗi quốc gia nghe khác nhau.

* Sa pisarze nieprzetlumaczalni na obce mowy. Tych mozna spokojnie propagowac za granica.
Có những nhà văn không thể dịch được ra tiếng nước ngoài. Chỉ có thể tuyên truyền một cách lặng lẽ cho họ ở nước ngoài.

* Badz realista: nie mow prawdy.
Hãy là người thực tế: đừng nói thật.

* Czasem wawrzyny zapuszczaja korzenie w glowie.
Có khi vòng nguyệt quế đâm rễ vào đầu.

* Sa sztuki tak slabe, ze nie moga zejsc ze sceny.
Có những vở kịch yếu đến nỗi không đủ sức ra khỏi sân khấu.

* Zblizajac sie do prawdy oddalamy sie od rzeczywistosci.
Càng đến gần sự thật chúng ta càng đi xa thực tế.

* Z tchorzostwa przechowywal swoje mysli w cudzych glowach.
Vì nhát gan hắn đã giấu những ý nghĩ của mình trong đầu kẻ khác.

* Prawdziwego mezczyzne poznac, nawet gdy jest goly.
Dễ nhận ra người đàn ông đích thực, ngay cả khi trần truồng.

* Kto wie, co by odkryl Kolumb, gdyby nie stanela na drodze Ameryka.
Ai mà biết Columbus đã tìm ra cái gì nếu như Châu Mỹ không ở trên đường đi của ông.

* Obled chorazego: mysl, ze jest sztandarem.
Bệnh cuồng của người cầm cờ: anh ta nghĩ rằng anh ta là ngọn cờ.

* Nie tworzcie sobie bogow na swoje podobienstwo!
Đừng tạo cho mình thần tượng giống như mình.

* Czas jest nieruchomy. Tylko my sie w nim poruszamy w niewlasciwym kierunku.
Thời gian không chuyển động. Đấy là ta đi trong thời gian và theo hướng khác.

* Co trzyma nas na tym globie prуcz sily ciazenia?
Ngoài sức hút của trái đất, còn điều gì giữ ta lại trên hành tinh này?

* Nie ma bezuzytecznego piekna, istniej chocby po to, by go nienawidzic.
Không có cái đẹp nào vô ích. Cái đẹp tồn tại dù chỉ là để cho người ta căm thù nó.

* Byc swoim wіasnym ministrem spraw wewnetrznych!
Hãy luôn là Bộ trưởng bộ nội vụ của chính mình!

* Najslabsze ogniwo lancucha jest najsilniejszym. Zrywa wiez.
Mắt xích yếu nhất là mắt xích mạnh nhất, vì rằng nó làm cho đứt cả dây xích.

* Tam gdzie wszyscy spiewaja na jedna nute slowa nie maja znaczenia.
Nơi mà tất cả đều hát theo một âm điệu thì ca từ không hề có ý nghĩa.

* Wlasna niemoc jest tak niebezpieczna jak obca przemoc.
Sự bất lực của chính mình cũng nguy hiểm như sự cưỡng bức của người khác vậy.

* "Wracamy zawsze do naszej pierwszej milosci". Moze. Ale w coraz to
innych celach.
“Ta luôn quay về với tình yêu đầu”. Có thể. Nhưng với những mục đích khác nhau.

Thơ tình Giáo Hoàng John Paul II


Bức hoạ thành Rôm phần II - 
Theo sách "Sáng thế ký"

NGÀI (ĐỨC CHÚA TRỜI)

Ta sống, đi lại, hít thở bằng Ngài
Nhưng chẳng lẽ Ngài chỉ là Đức Chúa?
Ngài sáng tạo ra muôn loài, và sau đó
Ngài cho tất cả có hơi thở, cuộc đời
Bàn tay Ngài là trụ đỡ cho những ước mơ.
Ta là nòi giống của Ngài – cuộc đời của Chúa.
Giáo chủ trong dàn đồng ca đứng giữa
Cất giọng hát lên, những lời trong Kinh
Con người hồi tưởng trong buổi hoàng hôn:
"Nhìn thấy Đức Chúa Trời, và đó là tốt đẹp".

Tâm hồn trong đời sáng tỏ nhường kia
Đức Chúa Trời soi sáng cho tất cả
Khởi thuỷ là Lời – Lời mở ra cánh cửa
Ta bước vào – hít thở, sống và đi.

 On

«W Nim żyjemy, poruszamy się i jesteśmy».
Czy On jest tylko przestrzenią bytowania bytujących?
Jest Stwórcą.
Ogarnia wszystko stwarzając i podtrzymując w istnieniu —
Sprawia podobieństwo.
Gdy Paweł apostoł przemawia na Areopagu
wyraża się w jego słowach cała tradycja Przymierza.
Dzień każdy kończył się tam słowami:
«I widział Bóg, że było dobre».

Widział, odnajdywał ślad swojej Istoty —
Znajdował swój odblask we wszystkim co widzialne.
Przedwieczne Słowo jest jak gdyby progiem,
za którym żyjemy, poruszamy się i jesteśmy.


CON NGƯỜI (TÔI) 

Kêu lên trong sáng tạo của mình:
- "Hoan hô!"
Nhưng lịch sử trái ngược với ý muốn của ai?
Thế kỉ hai mươi thật vô cùng khiếp đảm!
Có thể chỉ là thế kỷ hai mươi?
Nhưng chân lý trăm năm không hạ mình tranh luận.
Và hình dáng, sự tương tự - của Ngài!

Người làm thuê của chân lý – thầy Buonarroti(1)
Suốt cả đời những gian phòng ở Vatican đã vẽ
Và chỉ mở cửa ra đi, ngôi nhà từ giã
Sau khi đã vẽ xong nhà thờ Sistina(2).

"Và Ngài đã tạo ra
Con người theo hình của Chúa
Ngài đã tạo ra
Đàn ông và phụ nữ
Ngài đã tạo ra họ.
Và cả hai đều trần truồng
Và không hề xấu hổ".
Và Đức Chúa Trời khi đó
Ngắm nhìn những gì Ngài đã tạo ra
Và nói: "Tất cả đều tốt đẹp cả mà!"

Không một sinh linh nào tránh khỏi con mắt Ngài
Trước mắt Ngài tất cả đều sáng tỏ.

Człowiek (Ja)

Dlaczego o tym właśnie jedynym dniu powiedziano:
«Widział Bóg, że wszystko, co uczynił, było bardzo dobre»?
Czy temu nie przeczą dzieje?
Choćby nasz wiek dwudziesty! I nie tylko dwudziesty!
A jednak żaden wiek nie może przesłonić prawdy
o obrazie i podobieństwie.

Michał Anioł
Z tą prawdą kiedyś zamknął się w Watykanie,
aby wyjść stamtąd, pozostawiając Kaplicę Sykstyńską.
«Stworzył więc Bóg człowieka na swój obraz,
na obraz Boży go stworzył,
mężczyzną i niewiastą stworzył ich.
Chociaż oboje byli nadzy,
nie doznawali wobec siebie wstydu»!
I widział Stwórca, że było bardzo dobre.
Czyż nie On właśnie widzi wszystko w całej prawdzie?
Omnia nuda et aperta ante oculos Eius —


SỰ PHÁN XÉT

Bảo tàng Sistina có bức tranh ngày phán xử
ở Capella(4) có toà án cho tất cả mọi người
Trong những con mắt đớn đau – cùng chung phận số
Điểm tận cùng là điểm kết đó thôi
Cứ như vậy, lần lượt những cuộc đời.

Non omnis morriar
Không, ta không chết bao giờ
Trong ta là cuộc sống
Đấy chỉ là phần xứng đáng
Đối diện với Ngài
Ngài đã tạo ra sự sống!
Đám đông trong bức tranh luống cuống.
Ngươi chưa quên chứ, Adam?
Ngài đã từng gọi:
- Con ở đâu rồi?
Và ngươi trả lời:
- Con sợ, con trần truồng
Con trốn vì điều ấy.
Ai nói rằng ngươi trần truồng?
Và ngươi đã trả lời, có nhớ?
- Ngài đã trao cho con người vợ
Và vợ con trao trái cấm cho con...

Đám đông chen chúc trong bức hoạ trên tường
Trước câu trả lời con người còng lưng xuống
Câu hỏi đã ghi, câu trả lời cũng đúng
Tất cả ra về theo một đường chung.

Sąd

W Kaplicy Sykstyńskiej artysta umieścił Sąd.
W tym wnętrzu Sąd dominuje nad wszystkim.
Oto kres niewidzialny stał się tutaj przejmująco widzialny.
Kres i zarazem szczyt przejrzystości — 
Taka jest droga pokoleń.

Non omnis moriar —  
To co we mnie niezniszczalne,
teraz staje twarzą w twarz z Tym, który Jest!
Tak zaludniła się ściana centralna sykstyńskiej polichromii.
Pamiętasz, Adamie? On na początku ciebie pytał «gdzie jesteś?»
A ty odrzekłeś: «Ukryłem się przed Tobą, bo jestem nagi».
«Któż ci powiedział, że jesteś nagi?»...
«Niewiasta, którą mi dałeś» podała mi owoc...

Ci wszyscy, którzy zaludniają ścianę centralną sykstyńskiej
polichromii,
niosą w sobie dziedzictwo twojej wówczas odpowiedzi!
Tego pytania i tej odpowiedzi!
Taki jest kres waszej drogi.
_____________________- 
*Bức hoạ thành Rôm là bài thơ dài gồm 3 phần, mỗi phần có nhiều mục. Chúng tôi chỉ trích dịch 3 mục của phần 2.
(1) Michelangelo Buonarroti (1475-1564) – nhà điêu khắc, hoạ sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ Italia.
(2) Sistina (Capella Sistina) – nhà thờ ở Vatican, nay là bảo tàng, nơi có những bức tranh nổi tiếng của Michelango Buonarroti
(4) Tháp chuông nhà thờ ở Vatican.


Thơ tình Al-Ma‘arri


***
Thời gian giống như con ngựa lao nhanh
Nhìn bốn xung quanh – đã sắp ngày tàn.

***
Đừng phí công để tu sửa cuộc đời
Thánh Alah cũng nhầm lẫn đấy thôi.

***
Đừng ghen tỵ với những người hạnh phúc
Họ cũng chết, tất cả tùy trường hợp.

***
Tôi giấu ý nghĩ trong cõi kín thầm
Để chúng không làm phiền những người thân.

***
Con người, nhà cửa, áo quần đều già
Chỉ ngày và đêm là luôn luôn mới
Quần áo cả tơ, tuổi trẻ của tơ
Đều phai nhạt theo dòng thời gian chảy.

***
Người ta buồn vì linh hồn rất dễ
Chuyển nhập từ xác này sang xác nọ.

***
Người cao thượng là người luôn cô độc
Giữa những người cùng giống nòi, bộ tộc.


***
Nhìn những con người sống trên mặt đất
Có tư chất, nhưng số đông là ác.

***
Tôi ra đi, nỗi đau đớn khôn nguôi
Cùng những bất hạnh bỏ lại trên đời.

***
Xin hãy chớ nói rằng: “Ta trong trắng!”
Trong trắng làm sao giữa cuộc đời bụi bặm.

Thơ tình Attar



 Một số lời hay ý đẹp

**
Hãy tỏ lòng tốt với người bị phụ thuộc vào anh.

**
Luôn luôn theo sự lười biếng
Là sự sỉ nhục đi kèm.

**
Biết kính trọng người già khi còn trẻ
Là kính trọng chính mình khi bóng xế.

**
Tình của người đang yêu là lửa, trí tuệ - là khói
Khi tình yêu đến thì trí tuệ từ giã người tình.

**
Trí tuệ vô minh trong những việc tình yêu
Tình và trí tuệ không tồn tại cùng nhau.

**
Lửa thù hận, này con
Dập tắt khi còn nhỏ
Khi trời chưa cho nó
Đám cháy to chưa thành.

**
Với những người đang sống quanh chúng ta
Họ vốn những kẻ cứng đầu cứng cổ
Nếu họ không thích cách sống của ta
Thì ta cần phải thích nghi theo họ
Rồi chế ngự cái dở của người ta.

**
Không cần che giấu bệnh tật của mình
Với hai người: bác sĩ và người bạn.

**
Cái thế giới mà ta đang sống đó
Giống như là quán rượu buổi hoàng hôn
Nhưng ánh sáng của tri thức trong nó
Có thể xua tan bóng tối màn đêm.

**
Điều nghe có vẻ vô lý, nhưng nó không phải vậy, còn tốt hơn sự thiếu hiểu biết của người đã nghĩ rằng nó là vô lý.


Thơ tình Mirza Shafi Vazeh


***
Cần phải sống ra sao: hạnh phúc hay trung thực?
Nhưng giữa hạnh phúc và lòng tốt là một vực sâu
Chỉ một số ít trong chúng ta tìm được cây cầu
Số còn lại đành ngậm ngùi chết trong miệng vực.

***
Cái Thiện ban đầu hiện rõ trên khuôn mặt
Và cái Ác cũng hiện trên khuôn mặt rõ ràng
Nhưng mà ta vẫn hiểu biết về nhau quá ít
Bởi không phải ai cũng xác định được rõ rành.

***
Nếu như bạn thông minh, hãy đến với người ngu
Nếu như bạn sáng mắt, hãy đến với người mù
Vì người mù không đến được với người mắt sáng
Còn với người thông minh – không tự đến người ngu.

***
Mỗi chúng ta đều có niềm vui của mình
Dù là bé tẻo tèo teo hoặc to lớn vô cùng
Ngay cả người biết rằng: hạnh phúc không hề có
Vẫn tìm ra hạnh phúc ở chốn trần gian.

***
Mọi thứ trên đời này: may mắn hay tai họa
Tất cả đều nhận lấy, dù kẻ khóc người cười
Và nếu hạnh phúc cho mình, bạn lấy về không thể
Thì chẳng ai mang cho bạn – cả vua chúa, cả ông trời.

***
Hãy hát lên, cho có vẻ như ngày
Rất xa xôi, cái chết sờ lên má
Nhưng hãy sống, hãy yêu, như có vẻ
Cái chết đã về bên cửa hôm nay. 



***
— Biết sống sao đây, để không làm điều xấu
Để không làm cho ai phải khổ, phải buồn?
— Hãy luôn đối xử với người ta cho có vẻ
Như bạn muốn người ta đối xử với mình.


***
Nhà thông thái ưa những cái rõ ràng
Người dũng cảm ưa những gì nguy hiểm
Người đau khổ yêu những gì đau thương
Yêu những gì phía trước – là người hy vọng.

Một số người cho cuộc đời vô thường
Số khác cho rằng cuộc đời bất biến
Cứ nghe theo người ta và hãy nhớ rằng:
Họ đều đúng, nhưng không hoàn toàn đúng.

***
Một kẻ ngu, dù hiểu mọi chuyện tỏ tường
Đã từng nói rằng cuộc đời này là bể khổ
Và tất cả người ngu đều lặp lại điều trên
Mà những người này đều có con cháu của mình
Và cuộc đời trở thành nguyền rủa cho tất cả
Rồi họ chết không phải vì khổ mà vì buồn.

Thơ tình Avicenna



***
Rót rượu ra cho dài thêm năm tháng
Rót rượu ra cho niềm vui bất tận.

Rượu là lửanhưng nỗi buồn trần gian
Rượu cuốn phănggiống như là Nước sống.

***

Con tim khát khao đi hết con đường
Khát khao hiểu biếtnhìn vào bên trong.

Trí tuệ như nghìn mặt trời soi sáng
Nhưng đến cùngkhông hiểu được như mong.

***

Rượu là bạnnhưng có điều gian trá
Uống nhiều là thuốc độcuống vừa – thuốc bổ.
Đ
ừng tích gom nhiều chất độc cho mình
Uống vừa mức để kéo dài tuổi thọ.

***

Những gì giấu trong lời – tôi hiểu rõ
Và không khó nhận thức ra vũ trụ.
Nhưng liệu tôi có hiểu được chính mình?
Tôi hiểu rằng tất cả đều không rõ.

***

Mặt đất này giống như bàn cờ tướng
Bao con tốt trong bàn tay số phận.

Vua hay tôi đều về cõi hư vô
Ta ở mấy ngày rồi về xa vắng.

***

Rượu ghét người saykết bạn cùng người tỉnh
Uống vừa phải – thuốc bổuống triền miên – thuốc đắng.

Ai uống triền miên – mang độc cho thân mình
Uống vừa phải để vinh danh nguồn nước sống.
  
***
Khi ta chếttừ lớn cho đến bé
Biết một điều rằng không biết gì cả.

***
Việc của y học là chăm lo sức khỏe
Tìm nguyên nhân bệnh và điều trị nó.



***
Từ cát bụi đất đến thiên thể trời
Tôi tìm ra bí mật của bao lời
Đã gỡ ra biết bao nhiêu đầu mối
Nhưng cái chết – tôi đành chịu bó tay.

***
Thiên hạ vốn quen giống như chó săn
Ngửi mùi lạ khi tìm thú trong rừng.
Giữ bí mật và ngồi yên một chỗ
Còn bỏ chạy – bạn sẽ thành tù nhân.

***
Nền tảng của tất cả ở hít vào thở ra
Nhưng cuộc đời này vốn rất đa dạng
Nền tảng không khí có là vĩnh viễn
Câu trả lời chỉ có  đám ma.

***
Yêu thể dục để vui vẻ thường xuyên
Để sống trăm nămmà có thể hơn.
Bất đắc dĩ mới phải dùng đến thuốc
Chỉ thiên nhiên mới là thuốc tuyệt trần.

***
Bạn qua đời, để lại bao cái xấu
Còn cầu nguyện để xin điều tha thứ
Đừng hy vọng gì, sẽ chẳng có đâu
Ai gieo gió ắt sau này gặt bão.

***
Tâm hồn, ngươi gắn liền với dục vọng và ước mong
Hãy biết sống vội vàng với từng khoảnh khắc
Đừng mua bán tình, đừng đòi hỏi giàu sang, thứ bậc
Ai không quí hạnh phúc thì bất hạnh đang gần.


VỀ MẠCH ĐẬP

Mạch của đàn ông trong suốt cuộc đời
Đ
ập nhanh hơn và mạnh hơn phụ nữ
Mạch nhanh bước chạy trong thời trai trẻ
Và chậm hơn khi tuổi đã xế chiều.


Mạch trong mùa đông có phần tĩnh lặng
Và cân bằng trong buổi sáng mùa xuân.

Mạch của trẻ con có phần nhanh hơn
Và mỏng manh hơn so cùng người lớn.


VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA SAO VÀ MẶT TRỜI


Những ngôi sao hiệnlấp lánh trong màn sương
Á
nh sáng của sao cảm thấy trên mặt đất.
Đô
i khi hiện ra một ngôi sao ác
Thì con người lẫn thành phố tiêu tan.


VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA MÀU SẮC ĐẾN THỊ GIÁC


Với con mắt ta không gì tốt hơn
Là nhìn ánh sáng màu xanh và thẫm
Còn sáng rực rỡ màu vàng và trắng
Với con mắt – là có hại vô cùng.


VỀ TÍNH CÁCH


Tính cách đàn ông – khô khannóng nảy
Còn phụ nữ - ướt ẩm và lạnh lùng.

Ở những người nhìn thấy ven rõ ràng
Thì bản tính cởi mở và nóng nảy
Còn những người mạch ven không nhìn thấy
Thì tính cách người đó rất lạnh lùng.

Thơ tình dân gian Ba Tư


RUBAIYAT DÂN GIAN BA TƯ

1.
Anh đến đây khi nhìn thấy trăng lên
Bên bờ rào em đợi một mình em
Bát nước đầy em trao anh hãy uống
Hết nước rồi anh hãy uống môi em.

2.
Trên thảo nguyên nghe tiếng sấm ầm ì
Trong vườn không còn tiếng hát hoạ mi.
Tình bắt đầu thật muôn hình muôn vẻ
Nhưng kết thúc thì chỉ có chia ly.

3.
Cô gái ngồi khóc trong một buổi chiều
Trong tim cô vừa sợ lại vừa yêu.
Chiều hôm đó tôi sang nhà an ủi:
Trời xui mình thân thiết, hãy nghe theo!

4.
Vườn hồng vẫn khoe sắc đẹp của mình
Còn em nhìn ra xa, không nhìn anh.
Anh chúc cho em với tình yêu mới
Với người tình và em hãy chúc anh!

5.
Giá mà quay lại thời gian hai mươi năm về trước
Về lại cái thời khi cuộc đời đang khó nhọc.
Chứ bây giờ bố em giàu có còn anh vẫn đang nghèo
Dù anh có hỏi bao nhiêu bố vẫn trả lời : “Không được!”

6.
Em có thể phụ tình, còn anh không thể.
Em có thể lại yêu, còn anh không thể.
Em có thể quên hết thảy mọi điều
Quên mãi mãi, muôn đời, còn anh không thể.

7.
Giá mà ta đã không sống gần nhau
Thì chắc gì ta đã nhận ra nhau.
Thì giờ đây ta đã không đau khổ
Thì giờ đây ta đã chẳng u sầu.

8.
Cuộc đời tôi bất hạnh, tôi biết làm sao?
Tôi một mình, em đâu đấy, tôi biết làm sao?
Tôi không cầu trời để được sống lâu trăm tuổi
Nhưng với cuộc đời ngắn ngủi, tôi biết làm sao?

9.
Anh đã mê dáng người em thanh thanh
Anh đã cuồng điên bởi ánh mắt nhìn.
Em đã bắn mũi tên vào trong ngực
Mũi tên này là số phận của anh.


10.
Mùa xuân đến rồi. Bao giờ em đến?
Thiếu em anh buồn. Bao giờ em đến?
Em hứa rằng khi tuyết bắt đầu rơi
Tuyết tan hết rồi. Bao giờ em đến?

11.
Giấc mơ ngọt ngào trong đêm đến rồi đi
Người đẹp dịu dàng trong mơ đến rồi đi
Và sáng ra người đẹp dịu dàng đến thật
Như trăng giữa trời người đẹp đến rồi đi.

12.
Đi cãi nhau với núi để làm gì?
Đi yêu người giàu có để làm chi?
Tôi đẫ yêu, điều gì tôi nhận được?
Sống làm chi, đau khổ để làm gì?

13.
Đêm dù đen nhưng mắt em đen hơn
Trăng dù sáng nhưng mặt em sáng hơn.
So hết thảy muôn loài trong vũ trụ
Chẳng có gì bằng sắc đẹp người thương.

14.
Chiếc khăn trên đầu em là quà tặng của tôi
Nhưng em chẳng yêu tôi, em yêu người khác rồi.
Thôi em ạ, hai ta đều không có lỗi
Tôi khổ đã đành, em cũng khổ như tôi.

15.
- Anh muốn hôn và muốn cắn đau em
Để về anh em không thể nào quên.
- Đừng lên má, kẻo mẹ em nhìn thấy
Tay em đây, áo che ánh mắt nhìn.

16.
Trăng lên cao, trăng sáng giữa trời xanh
Em ra khỏi nhà nhưng em chẳng đến anh
Em đi đâu, tìm ai? Anh chẳng biết
Nhưng bóng hình em vẫn ngự trị tim anh.

17.
Tình của em như sa mạc mênh mông
Anh lạc ở trong không tìm thấy đường
Tim đã trao nhưng nhận về không thể
Đổi cho anh trái tim của người thương.

18.
Chẳng có sông nào mà không có nước
Tình không đau chẳng thể nào có được.
Đau khổ muôn đời là bạn của tình yêu
Chỉ ai không yêu là người không nước mắt.

19.
Khi hình em xuất hiện trước mắt anh
“Nhắm mắt đi!” Anh tự nói với mình
Mắt đã nhắm nhưng mà không che nổi
Hình bóng em vẫn hiện trước mắt anh.
  

20.
Bím tóc em với anh là gông cùm
Hãy tháo giùm anh bằng những nụ hôn.
Chỉ vì em con tim anh gìn giữ
Thế cho người em có giữ tim không?

21.
Ánh mắt nhìn chẳng giấu nổi anh đâu
Rằng em yêu người khác đã từ lâu.
Em đã thề thủy chung rồi phụ bạc
Câu thề nguyền sao nỡ vội quên mau!

22.
Chàng trai ơi đừng đứng trước nhà em
Biết làm sao để con mắt không nhìn
Rồi bố biết, bố giấu em, bố cấm
Mẹ đánh em, bà nội cũng mắng em.

23.
Đến với anh, em sẽ là người tình
Anh là người mua sắc đẹp của em
Nhưng anh đang nghèo, hãy cho nợ nhé
Anh sẽ không quên lòng tốt của em.

24.
Tạm biệt em, tôi cất bước đường xa
Liệu hai ta còn gặp nữa bao giờ?
Nếu tôi không ra gì, xin lỗi nhé
Còn nếu là người tốt, nhớ tôi nghe!

25.
Liệu có thể chăng ta được trở thành:
Anh – nô lệ của em, em – của anh?
Em cứ nói rằng: “Vâng!”, anh sẽ đợi
Hạn bất kỳ, dù đợi đến trăm năm.

26.
Trong giấc mơ em thấy người yêu em
Khi tỉnh giấc thấy đau nhói trong tim.
Trong giấc mơ em với người hạnh phúc
Tỉnh giấc mơ em chỉ có một mình.

27.
Lòng em đau, nước mắt đã nhạt nhoà
Chẳng yêu ai, sắc đẹp cũng phôi pha.
Chỉ tại anh. Hãy nói vì sao vậy?
Sao thấy em nhưng anh chỉ đi qua?

28.
Em không ngủ, em không biết làm sao!
Con đường dài, em không biết làm sao!
Nhìn con đường, anh còn quay trở lại?
Thiếu anh rồi, em còn biết làm sao!

29.
Biết làm sao, tôi đau đớn vô cùng
Hai người con gái như hai ngọn trúc xinh.
Một người xa, còn một người gần lắm
Cả xa, gần lòng tôi vẫn đều mong.
  

30.
- Em yêu ơi sao trách cứ gì nhau
Thề có trời anh có trộm gì đâu.
- Anh yêu ạ, anh còn hơn kẻ trộm
Lấy tim em, anh có trả lại đâu.

31.
Anh chẳng cần gì, chỉ cần em
Chẳng có gì vui, nếu thiếu em
Anh chẳng cần dù đường hay mật
Mật đắng hơn thuốc, nếu thiếu em.

32.
Tình yêu ơi, nói cho tôi lần cuối
Tôi và em – ai là người có lỗi?
Tôi cứ buồn, cứ trông đợi về em
Xin hãy nói: em buồn về ai vậy?

33.
Đã từ lâu anh lạc giữa bờ mi
Của đôi mắt em quên hẳn lối về…
Tại đôi mắt, con tim không có lỗi
Sao ông trời bắt tội để làm chi?

34.
Ta cùng nhau đi nhớ lại những đêm
Những khi trăng thanh gió mát êm đềm…
Em còn trẻ những đêm trăng còn nữa
Chỉ anh già, anh sẽ chẳng còn em!

35.
Anh đi tìm em nhưng chẳng biết tìm đâu
Có lẽ em như nước, hay giống ngôi sao?
Nếu ngôi sao thì mây nào giấu được
Nếu như nước thì nước chảy về đâu?

36.
Tôi muốn nhắc đi, nhắc lại một điều:
Chẳng có ai yêu mà lại không đau
Tình yêu không khác gì manh áo hẹp
Khó cởi ra nhưng rất dễ mặc vào.

37.
Hoa thủy tiên: “Sắc đẹp ta người nhắc đến đã nhiều!”
Hoa tuy-líp: “Ta duyên dáng, yêu kiều bên suối reo!”
Hoa hồng đỏ: “Các người đều vớ vẩn
Ta là hoa biểu tượng của tình yêu!”

38.
Cỏ ba lá: “Ta cháy trên cỏ xanh!”
Tuy-líp: “Còn ta bên suối, bên ghềnh!”
Hoa hồng đỏ: “Các người đều vớ vẩn
Ta trên tóc, trên ngực của người tình!”

39.
Cô gái ơi, anh chết mê chết mệt
Ánh mắt em như mùa đông, ngực em như tuyết
Đôi môi anh nóng bừng, anh làm tuyết em tan
Mà tuyết tan thì mùa đông cũng hết.

40.
Cành lá xoè, tỏa rộng giữa vườn xanh
Chim hoạ mi say sưa hót về tình
Rồi lặng im, chim bay về sau núi
Chỉ còn nỗi đau ngự giữa lòng anh.

41.
Quê tôi người ta bán lựu, bán cam
Người ta đem tình yêu bán lấy vàng.
Anh và em dù yêu nhau tha thiết
Mẹ cha em bán cho kẻ giàu sang.

42.
Em xinh hơn trúc, em của anh!
Em đẹp hơn hoa, em của anh!
Em chợt hiện rồi biến mất ngay đấy
Chỉ nỗi buồn còn lại, em của anh!