Thứ Ba, 26 tháng 5, 2020

Thơ tình Charles Baudelaire

TRÍCH TỪ
Nỗi buồn Paris – Những bài thơ văn xuôi nhỏ 
(Le Spleen de Paris – Petits Poèmes en prose)


XVII. Một nửa thế giới trong mái tóc

Hãy cho phép anh hít vào thật lâu mùi hương của mái tóc em, dìm gương mặt của mình trong trong mái tóc, giống như kẻ lữ hành trong cơn khát đang cúi xuống mạch nước nguồn và vẫy vẫy chúng như một chiếc khăn đượm mùi hương, để cho kỷ niệm rơi vãi lung tung ra giữa bầu không khí.

Giá mà em biết ra tất cả những gì anh đang nhìn thấy! tất cả những gì anh cảm thấy! tất cả những gì anh nghe ra trong mái tóc của em! Linh hồn của anh lang thang giữa những mùi hương, giống như linh hồn của những người khác lang thang trong tiếng nhạc.

Mái tóc của em gợi ra những điều mơ ước mà trong đó có những cánh buồm, những cột buồm và biển cả mênh mông, nơi có những cơn gió mùa mang anh về những miền đất kỳ diệu, nơi không gian xanh hơn và sâu hơn, nơi không khí thơm ngát mùi hương của trái cây, của lá và của da thịt con người. 

Trong đại dương của mái tóc em, anh mơ màng thấy một bến cảng xa xôi tràn ngập những bài hát u hoài, những chàng trai mạnh mẽ đến từ mọi quốc gia và những con tàu đủ kiểu, những đường nét muôn hình muôn vẻ dưới bầu trời rộng mở, nơi mùa hè muôn thuở.  

Khi vuốt ve mái tóc của em, anh lại nhớ về vẻ mệt mỏi dài lâu khi nằm trên đi văng trong buồng ngủ của một con tàu đẹp, vẻ dập dờn vì sóng nước giữa những chậu hoa, giữa những bình nước mát.  

Trong vẻ oi nồng của mái tóc em, anh hít thở mùi thuốc lá trộn với thuốc phiện và đường; trong màn đêm của mái tóc em anh thấy ánh lên sự vô tận của màu thiên thanh miền nhiệt đới; còn trên những bờ mềm mại của mái tóc em, anh đắm chìm trong mùi hương hỗn hợp của nhựa thông, của dầu dừa và của xạ hương. 

Hãy để anh cắn thật lâu mái tóc đen dài và nặng của em. Khi anh gặm những sợi tóc của em, dẻo dai và ngang bướng, anh ngỡ rằng mình đang ăn kỷ niệm. 

Un hémisphère dans une chevelure

Laisse-moi respirer longtemps, longtemps, l’odeur de tes cheveux, y plonger tout mon visage, comme un homme altéré dans l’eau d’une source, et les agiter avec ma main comme un mouchoir odorant, pour secouer des souvenirs dans l’air.

Si tu pouvais savoir tout ce que je vois ! tout ce que je sens ! tout ce que j’entends dans tes cheveux ! Mon âme voyage sur le parfum comme l’âme des autres hommes sur la musique.

Tes cheveux contiennent tout un rêve, plein de voilures et de mâtures ; ils contiennent de grandes mers dont les moussons me portent vers de charmants climats, où l’espace est plus bleu et plus profond, où l’atmosphère est parfumée par les fruits, par les feuilles et par la peau humaine.

Dans l’océan de ta chevelure, j’entrevois un port fourmillant de chants mélancoliques, d’hommes vigoureux de toutes nations et de navires de toutes formes découpant leurs architectures fines et compliquées sur un ciel immense où se prélasse l’éternelle chaleur.
Dans les caresses de ta chevelure, je retrouve les langueurs des longues heures passées sur un divan, dans la chambre d’un beau navire, bercées par le roulis imperceptible du port, entre les pots de fleurs et les gargoulettes rafraîchissantes.

Dans l’ardent foyer de ta chevelure, je respire l’odeur du tabac mêlé à l’opium et au sucre ; dans la nuit de ta chevelure, je vois resplendir l’infini de l’azur tropical ; sur les rivages duvetés de ta chevelure je m’enivre des odeurs combinées du goudron, du musc et de l’huile de coco.

Laisse-moi mordre longtemps tes tresses lourdes et noires. Quand je mordille tes cheveux élastiques et rebelles, il me semble que je mange des souvenirs.


XXXIII. Hãy say!

Luôn luôn cần phải say. Trong điều này là tất cả: đó là nhiệm vụ duy nhất. Để không cảm thấy gánh nặng khủng khiếp của Thời gian đang đè nặng trên vai bạn, làm bạn cúi gập xuống đất, cần phải không ngừng say.

Nhưng say bằng gì? Say bằng rượu vang, bằng thơ ca hay là sự thật – bằng cái gì cũng được. Nhưng hãy say!

Và nếu đôi khi, trên bậc thềm của một cung điện, trên bãi cỏ xanh bên bờ mương, trong sự cô đơn ảm đạm của căn phòng, khi thức dậy bạn cảm thấy rằng cơn say đã dịu đi hoặc đã không còn nữa thì bạn hãy đi hỏi gió, hỏi sóng, hỏi những con chim, hỏi những vì sao, hỏi chiếc đồng hồ, hỏi tất cả những gì đang chạy, hỏi tất cả những gì đang rên rỉ, hỏi tất cả những gì đang chuyển động, tất cả những gì đang hát, tất cả những gì đang nói – và hãy hỏi mấy giờ rồi; và gió, sóng, những con chim, những vì sao và đồng hồ sẽ trả lời cho bạn: “Đây là lúc say! Để không trở thành nô lệ của Thời gian, hãy say, hãy say sưa không ngừng! Say bằng rượu vang, bằng thơ ca hay bằng sự thật – bằng cái gì cũng được”. 

Enivrez-vous

Il faut être toujours ivre. Tout est là : c’est l’unique question. Pour ne pas sentir l’horrible fardeau du Temps qui brise vos épaules et vous penche vers la terre, il faut vous enivrer sans trêve.

Mais de quoi ? De vin, de poésie ou de vertu, à votre guise. Mais enivrez-vous.

Et si quelquefois, sur les marches d’un palais, sur l’herbe verte d’un fossé, dans la solitude morne de votre chambre, vous vous réveillez, l’ivresse déjà diminuée ou disparue, demandez au vent, à la vague, à l’étoile, à l’oiseau, à l’horloge, à tout ce qui fuit, à tout ce qui gémit, à tout ce qui roule, à tout ce qui chante, à tout ce qui parle, demandez quelle heure il est ; et le vent, la vague, l’étoile, l’oiseau, l’horloge, vous répondront : « Il est l’heure de s’enivrer ! Pour n’être pas les esclaves martyrisés du Temps, enivrez-vous ; enivrez-vous sans cesse ! De vin, de poésie ou de vertu, à votre guise. »


XXXVI. Khát khao thể hiện

Có thể là một người bất hạnh, nhưng là một nghệ sĩ hạnh phúc với khao khát của mình!

Tôi khát khao thể hiện một nàng mà hiếm khi xuất hiện trước mắt tôi và ra đi nhanh chóng, tựa hồ như một quang cảnh đẹp, thấp thoáng phút chốc trước mắt kẻ du hành rồi biến vào đêm. Đã bao nhiêu thời gian, kể từ ngày nàng biến mất!

Nàng xinh đẹp, và trên cả tuyệt vời: nàng gây sửng sốt. Màu sắc của nàng là màu đen, đấy là tất cả những gì truyền cảm hứng cho nàng, thể hiện chiều sâu và vẻ u ám của đêm. Đôi mắt của nàng là hai hang động tối tăm, nơi xuất phát những điều bí ẩn mơ hồ thấp thoáng, ánh nhìn của nàng giống như tia chớp đang lấp lánh; đấy là sự bùng phát của ánh sáng giữa bóng đêm.

Giá mà tôi được so sánh nàng với một mặt trời đen, giá mà tôi có thể hình dung ra một tinh cầu đen đang rót ra ánh sáng và niềm hạnh phúc. Nhưng có lẽ nàng gợi ra ý nghĩ về mặt trăng, mà không nghi ngờ, đã trao cho nàng quyền lực định mệnh của mình; nhưng không phải mặt trăng tái nhợt điền viên giống như một cô dâu lạnh lùng, mà là mặt trăng nham hiểm và say mê mẩn đang nhìn từ trong sâu thẳm của đêm giông xuyên qua những đám mây đang chạy nhanh; không phải mặt trăng tĩnh lặng và dịu êm đang canh giấc nồng cho những người ngoạn đạo, mà là mặt trăng bị đuổi từ trời xanh, bị đánh bại và lại nổi khùng, cùng với nó là những phù thủy Thessalian đang nhảy múa trên bãi cỏ vì sợ hãi đang dần chết.

Trên vầng trán thấp của nàng có một sự kiên gan và khát khao nô dịch. Nhưng trên gương mặt không yên này, nơi hai lỗ mũi đung đưa thở ra một mùi hương lạ lùng không thể tả, cái miệng của nàng cười to hết cỡ, màu trắng và màu đỏ của cái miệng này cho phép nghĩ về một bông hoa đẹp lạ kỳ nở trong đất núi lửa. 

Có những người phụ nữ gợi ra niềm khát khao chinh phục họ và thưởng thức họ; nhưng có để làm gì, tôi chỉ muốn được chết từ từ dưới ánh mắt của nàng say đắm.

Le Désir de peindre

Malheureux peut-être l’homme, mais heureux l’artiste que le désir déchire !

Je brûle de peindre celle qui m’est apparue si rarement et qui a fui si vite, comme une belle chose regrettable derrière le voyageur emporté dans la nuit. Comme il y a longtemps déjà qu’elle a disparu !

Elle est belle, et plus que belle ; elle est surprenante. En elle le noir abonde : et tout ce qu’elle inspire est nocturne et profond. Ses yeux sont deux antres où scintille vaguement le mystère, et son regard illumine comme l’éclair : c’est une explosion dans les ténèbres.

Je la comparerais à un soleil noir, si l’on pouvait concevoir un astre noir versant la lumière et le bonheur. Mais elle fait plus volontiers penser à la lune, qui sans doute l’a marquée de sa redoutable influence ; non pas la lune blanche des idylles, qui ressemble à une froide mariée, mais la lune sinistre et enivrante, suspendue au fond d’une nuit orageuse et bousculée par les nuées qui courent ; non pas la lune paisible et discrète visitant le sommeil des hommes purs, mais la lune arrachée du ciel, vaincue et révoltée, que les Sorcières thessaliennes contraignent durement à danser sur l’herbe terrifiée !

Dans son petit front habitent la volonté tenace et l’amour de la proie. Cependant, au bas de ce visage inquiétant, où des narines mobiles aspirent l’inconnu et l’impossible, éclate, avec une grâce inexprimable, le rire d’une grande bouche, rouge et blanche, et délicieuse, qui fait rêver au miracle d’une superbe fleur éclose dans un terrain volcanique.

Il y a des femmes qui inspirent l’envie de les vaincre et de jouir d’elles ; mais celle-ci donne le désir de mourir lentement sous son regard.


XXXVIII. Đâu là người thật?

Tôi từng quen biết với một cô gái có tên là Benedicta, người cứ ngỡ như là sự thể hiện của lý tưởng, người có đôi mắt khiêu gợi lòng khát khao hướng tới sự vĩ đại, vẻ đẹp, sự nổi tiếng và tất cả những gì buộc người ta tin vào sự bất tử.

Nhưng cô gái kỳ diệu này là quá đẹp, để mà sống được lâu; và nàng đã chết chỉ mấy ngày sau khi tôi làm quen với nàng, và tôi đã chôn nàng trong một ngày, khi mà mùa xuân vẫy lư hương của mình vào nghĩa trang. Tôi chôn nàng vào đất trong chiếc quan tài bằng gỗ thơm và không thể mục, giống như cái rương của người Ấn Độ.

Và khi đôi mắt của tôi vẫn còn chăm chú nhìn vào nơi mà tôi chôn kho báu của mình, thì bỗng nhiên tôi nhìn thấy một người phụ nữ nhỏ nhắn, rất giống với người vừa qua đời; người này dẫm đôi chân trên đất còn tươi, với một vẻ cuồng loạn và khó hiểu, vừa cười to vừa nói: “Đây là tôi, là Benedicta chân chính! Đây là tôi, kẻ vô lại nổi tiếng! Và để trừng phạt sự điên rồ của ngươi, sự mù quáng của ngươi, ngươi sẽ yêu tôi như là tôi vốn có!”

Nhưng tôi đã giận dữ trả lời: “Không! Không! Không thể!” Và để làm tăng thêm sự từ chối của mình, tôi dùng chân đạp một cách điên cuồng vào đất, làm cho người vừa chết biến ngay vào ngôi mộ đất còn tươi rói, và giống như một con sói bị sa vào bẫy, tôi bị trói, có thể là mãi mãi, vào ngôi mộ của Lý tưởng!

Laquelle est la vraie?

J’ai connu une certaine Bénédicta, qui remplissait l’atmosphère d’idéal, et dont les yeux répandaient le désir de la grandeur, de la beauté, de la gloire et de tout ce qui fait croire à l’immortalité.

Mais cette fille miraculeuse était trop belle pour vivre longtemps ; aussi est-elle morte quelques jours après que j’eus fait sa connaissance, et c’est moi-même qui l’ai enterrée, un jour que le printemps agitait son encensoir jusque dans les cimetières. C’est moi qui l’ai enterrée, bien close dans une bière d’un bois parfumé et incorruptible comme les coffres de l’Inde.

Et comme mes yeux restaient fichés sur le lieu où était enfoui mon trésor, je vis subitement une petite personne qui ressemblait singulièrement à la défunte, et qui, piétinant sur la terre fraîche avec une violence hystérique et bizarre, disait en éclatant de rire : « C’est moi, la vraie Bénédicta ! C’est moi, une fameuse canaille ! Et pour la punition de ta folie et de ton aveuglement, tu m’aimeras telle que je suis ! »

Mais moi, furieux, j’ai répondu : « Non ! non ! non ! » Et pour mieux accentuer mon refus, j’ai frappé si violemment la terre du pied que ma jambe s’est enfoncée jusqu’au genou dans la sépulture récente, et que, comme un loup pris au piége, je reste attaché, pour toujours peut-être, à la fosse de l’idéal.


Thơ tình Joachim du Bellay


Sonnet V – 5 

Những người đang yêu thích hát về tình
Người háo danh đi tìm sự vinh quang
Quan cận thần thì chỉ ưa nịnh hót
Để làm tăng thêm tài sản cho mình.  

Nhà khoa học lo miệt mài ngày đêm
Nhà linh mục rao giảng về đạo đức
Người mê rượu chè chỉ thích nhậu nhẹt
Người ước mơ thích viết truyện ngụ ngôn.

Người xét nét ưa bới lông tìm vết
Để bắt bẻ và vu khống kẻ thù
Người dũng cảm thích xông vào trận mạc.

Mọi công việc nhà thơ làm được hết
Trên đời này bất hạnh chỉ mình ta
Chỉ viết lách là điều ta làm được.

Sonnet V – 5 

Ceux qui sont amoureux, leurs amours chanteront,
Ceux qui aiment l'honneur, chanteront de la gloire,
Ceux qui sont près du roi, publieront sa victoire,
Ceux qui sont courtisans, leurs faveurs vanteront,

Ceux qui aiment les arts, les sciences diront,
Ceux qui sont vertueux, pour tels se feront croire,
Ceux qui aiment le vin, deviseront de boire,
Ceux qui sont de loisir, de fables écriront,

Ceux qui sont médisants, se plairont à médire,
Ceux qui sont moins fâcheux, diront des mots pour rire,
Ceux qui sont plus vaillants, vanteront leur valeur,

Ceux qui se plaisent trop, chanteront leur louange,
Ceux qui veulent flatter, feront d'un diable un ange :
Moi, qui suis malheureux, je plaindrai mon malheur.


XXXI – 31 

Phước cho ai như Ulysse từng du hành
Hay kẻ đoạt bộ lông cừu thần thánh 
Rồi trở về sống cuộc đời trọn vẹn 
Ở quê hương mình, giữa những người thân. 

Còn tôi bao giờ mới thấy ngôi làng 
Khói bếp bay lên trong chiều bảng lảng
Bao giờ thấy lại ngôi nhà thấp vắng
Thấy vùng đất tôi vẫn gọi quê hương?

Tôi yêu quí ngôi nhà của tổ tiên
Hơn cung điện, hơn lâu đài La Mã
Yêu gạch hồng hơn đá quý hoa văn 

Dù sông Loire không phải Tybre Latin 
Dù núi Liré không phải núi Palatin
Nhưng lòng tôi mến thương hơn tất cả.

XXXI – 31 

Heureux qui, comme Ulysse, a fait un beau voyage,
Ou comme cestuy-là qui conquit la toison,
Et puis est retourné, plein d’usage et raison,
Vivre entre ses parents le reste de son âge !

Quand reverrai-je, hélas, de mon petit village
Fumer la cheminée, et en quelle saison
Reverrai-je le clos de ma pauvre maison,
Qui m’est une province, et beaucoup davantage ?

Plus me plaît le séjour qu’ont bâti mes aïeux,
Que des palais Romains le front audacieux,
Plus que le marbre dur me plaît l’ardoise fine :

Plus mon Loir gaulois, que le Tibre latin,
Plus mon petit Liré, que le mont Palatin,
Et plus que l’air marin la doulceur angevine.


XLIV – 44 

Ông thầy thuốc chữa cơn sốt run
Bằng cách đắp lên người khăn ấm
Còn cơn sốt tình yêu khô và nóng
Chỉ dịu đi khi thỏ thẻ với tình.

Bếp lửa cháy em thổi nước vào trong
Thì ngọn lửa càng bốc lên vùn vụt
Ngọn lửa kia nếu em muốn dập
Cần phải đem dội nước bằng thùng.

Trong tình yêu bằng cách ấy được chăng?
Anh đã từng thử bằng cách như vậy
Tại vì sao không được hở Madame.

Càng cố sức dập ngọn lửa tình
Thì anh càng yêu em say đắm
Và không muốn ai dập lửa giùm anh!

XLIV – 44 

Au goust de l'eau la fievre se rappaise,
Puis s'evertue au cours, qui sembloit lent:
Amour aussi m'est humble, et violent,
Quand le coral de voz levres je baise.

L'eau goute à goute anime la fournaize
D'un feu couvert le plus etincelant:
L'ardent desir, que mon coeur va celant,
Par voz baisers se faict plus chault que braize.

D'un grand traict d'eau, qui freschement distile,
Souvent la fievre est etainte, Madame.
L'onde à grand flot rent la flamme inutile.

Mais, ô baisers, delices de mon ame!
Vous ne pouriez, et fussiez vous cent mile,
Guerir ma fievre, ou eteindre ma flamme.



XCIV – 94  

Phước cho ai tung hoành nơi trận mạc
Mà không bị bắt, cũng chẳng bị thương
Phước cho ai không phản bội quê hương
Dù vẫn sống cuộc đời nơi đất khách. 

Phước cho ai không sợ lời ghen ghét
Chỉ nịnh Giáo hoàng và sống vô tư
Không giết chóc mà có quyền thưởng thức
Mũ đỏ hay là chìa khóa thánh Pierre!

Phước cho ai giữa biển không gặp gì
Phước cho ai trong nhà luôn có khách
Phước cho ai cả đời không làm ác 

Phước cho ai kho báu luôn giữ được
Vợ thủy chung, nhưng còn hạnh phúc hơn
Ai không hói đầu, sống ba năm ở thành Rôm.

XCIV – 94  

Heureux celui qui peut longtemps suivre la guerre
Sans mort, ou sans blessure, ou sans longue prison !
Heureux qui longuement vit hors de sa maison
Sans dépendre son bien ou sans vendre sa terre !

Heureux qui peut en cour quelque faveur acquerre
Sans crainte de l'envie ou de quelque traïson !
Heureux qui peut longtemps sans danger de poison
Jouir d'un chapeau rouge ou des clefs de saint Pierre !

Heureux qui sans péril peut la mer fréquenter !
Heureux qui sans procès le palais peut hanter !
Heureux qui peut sans mal vivre l'âge d'un homme !

Heureux qui sans souci peut garder son trésor,
Sa femme sans soupçon, et plus heureux encor
Qui a pu sans peler vivre trois ans à Rome!



XCVII – 97 

Trong nắng hè tuyệt đẹp hoa hồng
Khi hoa trắng trong như tuyết
Và nhẹ nhàng toả ra hơi mát
Trên cành, từ vết cắt màu xanh.

Màu trắng này tất cả đều thở bằng
Tất cả cúi đầu trước hoa cảm tạ
Khẽ chạm vào cành hoa con thú sợ
Thế là con thú chạy vòng quanh.

Nhưng người ta đem bẻ cành hoa
Thì hoa buồn bã, não nề
Rồi hoa trở về cát bụi…

Bông hoa của tôi người ta đoạt lấy
Còn tôi bay trong mộng, trong mơ
Chốn xa xôi, rồi kết thúc trong thơ. 

XCVII – 97 

Qui a peu voir la matinale rose
D'une liqueur celeste emmïellée,
Quand sa rougeur de blanc entremeslée
Sur le naïf de sa branche repose:

Il aura veu incliner toute chose
A sa faveur: le pié ne l'a foulée,
La main encor' ne l'a point violée,
Et le troupeau aprocher d'elle n'ose.

Mais si elle est de sa tige arrachée,
De son beau teint la frescheur dessechée
Pert la faveur des hommes et des Dieux.

Helas! on veult la mienne devorer:
Et je ne puis, que de loing, l'adorer
Par humbles vers (sans fruit) ingenieux.



Thơ tình Gérard de Nerval


DELFICA* 

Dafné**, em còn nhớ câu chuyện cổ thần tiên
Bên bụi ô-liu, dưới gốc ngô đồng
Bên cây liễu rủ, bên vòng hoa trắng 
Bài hát tình yêu nghe biết bao lần?... 

Em đã nhận ra nơi có ngôi đền
Hành lang rộng, trong giây phút thần tiên
Và nhìn thấy con rồng trong hang rộng
Làm khiếp kinh biết bao ánh mắt nhìn… 

Họ sẽ quay về – thần thánh thiêng liêng! 
Lời tiên tri còn mãi giữa trần gian 
Vẻ lo lắng vẫn bao trùm mặt đất… 

Và Sibylae với khuôn mặt Latin 
Ngủ mơ màng dưới vòm Constantin
Mà chẳng quấy rầy những vòm nghiêm khắc. 
_____________________ _____________
*Delphica (tiếng Latin) – thuộc về địa điểm khảo cổ, là một thành phố cổ ở Hy Lạp, vùng đất thiêng thời cổ đại, hiện là một thị trấn thuộc vùng Phocis, miền trung Hy Lạp. 
* Δάφνη (tiếng Hy lạp), Daphne (tiếng Anh), – nhân vật nữ trong thần thoại Hy Lạp, tình yêu đơn phương của thần Apollo, người đã biến thành cây nguyệt quế để chạy trốn khỏi tình yêu này. 

Delfica

La connais-tu, Dafné, cette ancienne romance
Au pied du sycomore, ou sous les lauriers blancs,
Sous l'olivier, le myrte, ou les saules tremblants
Cette chanson d'amour qui toujours recommence ? ...

Reconnais-tu le TEMPLE au péristyle immense,
Et les citrons amers où s'imprimaient tes dents,
Et la grotte, fatale aux hôtes imprudents,
Où du dragon vaincu dort l'antique semence ? ..

Ils reviendront, ces Dieux que tu pleures toujours !
Le temps va ramener l'ordre des anciens jours ;
La terre a tressailli d'un souffle prophétique ...

Cependant la sibylle au visage latin
Est endormie encor sous l'arc de Constantin
- Et rien n'a dérangé le sévère portique.


CUỒNG TƯỞNG

Có giai điệu mà tôi đây sẵn sàng
Đem Rossini, Mozart, Weber ra đánh đổi
Giai điệu cổ buồn thương và tăm tối
Không hiểu sao lại quyến rũ vô cùng.

Mỗi lần nghe thấy trẻ lại trong hồn
Dường như cả hai trăm năm có lẻ
Thời vua Louis mười ba, và tôi nhớ
Cánh đồng xanh, hoàng hôn rực ánh vàng.

Tiếp theo, lâu đài gạch, đá ốp tường 
Những ô kính phong sương màu đỏ sẫm
Con sông nhỏ chảy giữa công viên rộng
Giữa bao hoa, nước mát tắm bàn chân.

Từ cửa sổ cao có bà mắt huyền
Mái tóc đen, bà mặc quần áo cổ
Hình như kiếp trước đã quen đâu đó
Từng gặp rồi… giờ bỗng nhớ ra chăng. 

Fantaisie

Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber,
Un air très vieux, languissant et funèbre,
Qui pour moi seul a des charmes secrets.

Or, chaque fois que je viens à l’entendre,
De deux cents ans mon âme rajeunit :
C’est sous Louis treize ; et je crois voir s’étendre
Un coteau vert, que le couchant jaunit,

Puis un château de brique à coins de pierre,
Aux vitraux teints de rougeâtres couleurs,
Ceint de grands parcs, avec une rivière
Baignant ses pieds, qui coule entre des fleurs ;

Puis une dame, à sa haute fenêtre,
Blonde aux yeux noirs, en ses habits anciens,
Que, dans une autre existence peut-être,
J’ai déjà vue… – et dont je me souviens !


THƠ MỘ CHÍ

Ông sống hết đời mình, vui như một con chim
Đã buồn bã, yêu thương, đã từng vô tư lự
Đã như mọi người, đã không như ai cả
Thế rồi thần chết về gõ cửa một hôm.

Ông cầu xin thần chết cho một chút rình rang
Để ông kịp viết cho xong một bài thơ cuối
Rồi sau đó ông nằm vào quan tài tăm tối
Đặt đôi bàn tay lên ngực lạnh, và run. 

Ông đã lười biếng kể câu chuyện mông lung
Rồi ông đã ra đi, để mực khô trong lọ
Muốn biết nhiều mà chẳng biết gì hết cả.

Và đến khi mệt mỏi với đời sống vô thường
Một buổi tối mùa đông, linh hồn ông hớn hở
Ông tự hỏi: “Ta đến đây để làm gì cơ chứ?” 

Épitaphe

Il a vécu tantôt gai comme un sansonnet,
Tour à tour amoureux insoucieux et tendre,
Tantôt sombre et rêveur comme un triste Clitandre.
Un jour il entendit qu'à sa porte on sonnait.

C'était la Mort ! Alors il la pria d'attendre
Qu'il eût posé le point à son dernier sonnet ;
Et puis sans s'émouvoir, il s'en alla s'étendre
Au fond du coffre froid où son corps frissonnait.

Il était paresseux, à ce que dit l'histoire,
Il laissait trop sécher l'encre dans l'écritoire.
Il voulait tout savoir mais il n'a rien connu.

Et quand vint le moment où, las de cette vie,
Un soir d'hiver, enfin l'âme lui fut ravie,
Il s'en alla disant : " Pourquoi suis-je venu ? "

Thơ tình Théophile Gautier


LỜI KHẤN CUỐI CÙNG

Tôi yêu em có biết đã bao năm
Yêu tha thiết kể từ năm mười tám
Giờ em sáng ngời còn tôi u ám 
Em – mùa xuân, còn tôi đã mùa đông. 

Một nghĩa trang bằng hoa huệ trắng ngần
Trên vầng trán đang tưng bừng đua nở
Sắp tới đây hoa kết thành từng bó
Che phủ ngôi đền của nỗi buồn thương.

Mặt trời nhạt của tôi đang xuống nhanh
Sắp tới đây sau chân trời mất hút
Phía trên ngọn đồi đau thương tang tóc
Tôi nhìn ra ngôi nhà cuối của mình. 

Nhưng giá như mà được em ban tặng
Nụ hôn muộn màng yêu dấu trên môi
Thì tôi vui và có thể nghỉ ngơi
Trong nấm mồ với con tim tĩnh lặng.

 Dernier voeu

Voilà longtemps que je vous aime :
- L’aveu remonte à dix-huit ans ! -
Vous êtes rose, je suis blême ;
J’ai les hivers, vous les printemps.

Des lilas blancs de cimetière
Prés de mes tempes ont fleuri ;
J’aurai bientôt la touffe entière
Pour ombrager mon front flétri.

Mon soleil pâli qui décline
Va disparaître à l’horizon,
Et sur la funèbre colline
Je vois ma dernière maison.

Oh ! que de votre lèvre il tombe
Sur ma lèvre un tardif baiser,
Pour que je puisse dans ma tombe,
Le coeur tranquille, reposer !


GIÁNG SINH

Bầu trời đêm trên cánh đồng tuyết trắng
Tiếng chuông đó đây xin hãy ngân lên 
Giê-su ra đời và Đức Mẹ đồng trinh
Trên đứa con gương mặt nhìn âu yếm.

Trong chuồng thú tối tăm và giá lạnh
Biết lấy gì để ủ ấm cho con
Chỉ mạng nhện treo lơ lửng trên không
Từ mái nhà đang lòng thòng rủ xuống. 

Đứa bé nằm run run trong rơm ấm
Vẻ dịu dàng – đây là Chúa Giê-su
Xung quanh có những con lừa, con bò
Hướng đứa bé thở ra làn hơi nóng. 

Trên mái nhà chỉ một màu tuyết trắng
Nhưng trên đó mở ra bầu trời xanh
Những thiên thần mặc áo quần màu trắng
Trong dàn đồng ca: “Giáng sinh! Giáng sinh!”

Noël

Le ciel est noir, la terre est blanche ;
– Cloches, carillonnez gaîment ! –
Jésus est né ; – la Vierge penche
Sur lui son visage charmant.

Pas de courtines festonnées
Pour préserver l’enfant du froid ;
Rien que les toiles d’araignées
Qui pendent des poutres du toit.

Il tremble sur la paille fraîche,
Ce cher petit enfant Jésus,
Et pour l’échauffer dans sa crèche
L’âne et le boeuf soufflent dessus.

La neige au chaume coud ses franges,
Mais sur le toit s’ouvre le ciel
Et, tout en blanc, le choeur des anges
Chante aux bergers :  » Noël ! Noël !  »


KHÓI

Nấp mình dưới hàng cây
Túp lều còng lưng xuống
Ngưỡng cửa phủ đầy rêu
Mái nghiêng, tường hư hỏng. 

Cửa sổ đều bịt kín
Nhưng như giữa trời đông
Hơi thở ấm từ miệng
Vẫn nhìn thấy rõ ràng. 

Như xoáy ốc bằng khói
Lơ lửng giữa chơi vơi –
Một linh hồn mệt mỏi
Mang tin về Chúa Trời. 

 Fumée

Là-bas, sous les arbres s’abrite
Une chaumière au dos bossu ;
Le toit penche, le mur s’effrite,
Le seuil de la porte est moussu.

La fenêtre, un volet la bouche ;
Mais du taudis, comme au temps froid
La tiède haleine d’une bouche,
La respiration se voit.

Un tire-bouchon de fumée,
Tournant son mince filet bleu,
De l’âme en ce bouge enfermée
Porte des nouvelles à Dieu.


WATTEAU*

Tôi đến Paris bằng con đường nông thôn
Dọc lối mòn trong buổi chiều tĩnh lặng
Chỉ mình tôi – không có bạn đồng hành
Chỉ cơn đau đưa bàn tay tôi nắm. 

Cánh đồng rộng mênh mông và u ám
Trong sự hài hòa cùng với trời xanh
Chẳng có màu xanh ở chốn đồng bằng
Chỉ công viên bỏ hoang từ lâu lắm. 

Tôi dò dẫm rất lâu tìm cánh cổng
Công viên này theo phong cách Watteau
Khu vườn cảnh cùng cây nhỏ cây to
Những lối đi được quét bằng vôi trắng. 

Tôi cùng với nỗi buồn và vui sướng
Khi đưa mắt nhìn, tôi hiểu điều này:
Rằng đã gần giấc mơ của đời tôi
Rằng nơi đó hạnh phúc tôi trú ẩn.
___________
*Jean - Antoine Watteau (1684 – 1721) – họa sĩ Pháp đi đầu của trường phái Rococo (hậu Baroque). 

Watteau

Devers Paris, un soir, dans la campagne,
J'allais suivant l'ornière d'un chemin,
Seul avec moi, n'ayant d'autre compagne
Que ma douleur qui me donnait la main.

L'aspect des champs était sévère et morne,
En harmonie avec l'aspect des cieux,
Rien n'était vert sur la plaine sans borne,
Hormis un parc planté d'arbres très vieux.

Je regardai bien longtemps par la grille ;
C'était un parc dans le goût de Watteau :
Ormes fluets, ifs noirs, verte charmille,
Sentiers peignés et tirés au cordeau.

Je m'en allai l'âme triste et ravie ;
En regardant, j'avais compris cela :
Que j'étais près du rêve de ma vie,
Que mon bonheur était enfermé là.


Thơ tình Anatole France


CÂY

Cây nở hoa trong vẻ đẹp yên bình
Cho đồng ruộng và núi đồi sống động
Bao thế hệ cây màu xanh tĩnh lặng
Sống bằng mặt trời và những giọt sương. 

Niềm đam mê sinh ở chốn trần gian
Vẫn khát khao hướng về nguồn ánh sáng
Mẹ thánh thiện đem tình yêu ban tặng
Cho các người, ấm áp tỏa mùi hương. 

Các người tựa như khát vọng được sinh
Khát vọng nở hoa trong ngày thánh thiện
Dù ngày trước linh hồn mong nổi loạn
Từ hỗn mang hồn tìm thấy cho mình. 

Trong giới hạn của vật chất lặng câm
Rễ các người cắm sâu vào lòng đất
Nhân lên cuộc đời xua đi cái chết
Giá trị cuộc đời còn đến muôn năm. 

Arbres

O vous qui, dans la paix et la grace fleuris, 
Animez et les champs et vos forets natales. 
Enfants silencieux des races vegetales. 
Beaux arbres, de rosee et de soleil nourris, 

La Volupte par qui toute race animee 
Est concue et se dresse a la clarte du jour, 
La mere aux flancs divins de qui sortit l'amour. 
Exhale aussi sur vous son haleine embaumee. 

Fils des fleurs, vous naissez comme nous du Desir, 
Et le Desir, aux jours sacres des fleurs ecloses, 
Sait rassembler votre ame eparse dans les choses, 
Votre ame qui se cherche et ne se peut saisir. 

Et, tout enveloppes dans la sourde matiere, 
Au limon paternel retenus par les pieds, 
Vers la vie aspirant, vous la multipliez
Sans achever de naitre en votre vie entiere. 


ƯỚC MONG

Ước mong nơi trần thế chỉ vô thường
Niềm khát khao lớn nhanh rồi tàn lụi
Người phụ nữ như hoa tàn lụi ấy
Còn giữ hồn ta cùng với mùi hương. 

Đôi bàn tay mềm mại như đất kênh
Rất nhẹ nhàng quấn vòng tròn quanh cổ
Trước khi cái vòng dịu êm bị vỡ
Gợi cho ta niềm hạnh phúc lâng lâng.

Mái tóc đen chảy bồng bềnh như đêm
Vào sâu thẳm sang trọng và tăm tối
Liệu có ai có thể chìm mãi mãi
Vào cái chết và trong bóng của mình?

Lỗ mũi giống như đôi cánh rung lên
Trong niềm kiêu hãnh chứa đầy khinh miệt
Rằng tất cả đấy là lần sau chót
Rằng sự biệt ly đã đến rất gần. 

Đôi bờ môi tựa như cánh hoa hồng
Lòng say đắm khi bờ môi khẽ chạm
Đó là vũ khí của đêm gợi cảm
Lửa cháy lên rồi hoa bỗng héo hon. 

Hai đôi môi dường như đã dính liền
Nụ hôn dài dường như nhầm mục đích
Làm sao giữ ngọn lửa dường đã tắt
Khi tro tàn trên bờ ngực mong manh?

Le désir

Je sais la vanité de tout désir profane. 
A peine gardons-nous de tes amours défunts, 
Femme, ce que la fleur qui sur ton sein se fane
Y laisse d'âme et de parfums.

Ils n'ont, les plus beaux bras, que des chaînes d'argile,
Indolentes autour du col le plus aimé ; 
Avant d'être rompu leur doux cercle fragile 
Ne s'était pas même fermé.

Mélancolique nuit des chevelures sombres, 
A quoi bon s'attarder dans ton enivrement, 
Si, comme dans la mort, nul ne peut sous tes ombres 
Se plonger éternellement ?

Narines qui gonflez vos ailes de colombe, 
Avec les longs dédains d'une belle fierté, 
Pour la dernière fois, à l'odeur de la tombe, 
Vous aurez déjà palpité.

Lèvres, vivantes fleurs, nobles roses sanglantes, 
Vous épanouissant lorsque nous vous baisons, 
Quelques feux de cristal en quelques nuits brûlantes 
Sèchent vos brèves floraisons.

Où tend le vain effort de deux bouches unies ? 
Le plus long des baisers trompe notre dessein ; 
Et comment appuyer nos langueurs infinies 
Sur la fragilité d'un sein ?


TÂM HỒN CỦA BÉ

Trong thiên nhiên bất biến
Khi đứa bé vừa sinh
Thì ý thức trẻ con
Nhận ra điều bí hiểm. 

Ánh mắt chưa cảm nhận
Nhìn mọi thứ quanh mình
Những gì mắt bé nhìn
Mang lại niềm vui lớn. 

Thiên thần chưa nhận biết
Tiếng nước chảy rì rào
Bé chưa nói nhưng nghe
Đời trong thế giới khác. 

Đôi mắt bé mở to
Đầy ước mơ kỳ lạ
Bé là thiên thần nhỏ
Trong thế giới cổ xưa. 

Mái đầu nhẹ hân hoan
Ước mơ mang cho bé
Điều người lớn không thể
Thấy cuộc sống tưng bừng. 

Âmes Obscures 

Tout dans l'immuable Nature 
Est miracle aux petits enfants : 
Ils naissent, et leur âme obscure 
Éclôt dans des enchantements.

Le reflet de cette magie 
Donne à leur regard un rayon. 
Déjà la belle illusion 
Excite leur frêle énergie.

L'inconnu, l'inconnu divin, 
Les baigne comme une eau profonde ; 
On les presse, on leur parle en vain : 
Ils habitent un autre monde ;

Leurs yeux purs, leurs yeux grands ouverts 
S'emplissent de rêves étranges. 
Oh ! qu'ils sont beaux, ces petits anges 
Perdus dans l'antique univers !

Leur tête légère et ravie 
Songe tandis que nous pensons ; 
Ils font de frissons en frissons 
La découverte de la vie.


TIẾNG PHÁP NHƯ MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ

Tiếng Pháp như một người phụ nữ
Người phụ nữ đẹp vô cùng
Người phụ nữ kiêu căng
Người phụ nữ khiêm tốn.

Người phụ nữ can đảm
Người làm ta mủi lòng
Người phụ nữ trắng trong
Và rất cao thượng.  

Người phụ nữ thân quen
Người phụ nữ điên cuồng
Người phụ nữ khôn khéo
Mà ta yêu bằng tất cả tấm lòng  
Và mãi thủy chung. 

La langue française est une femme

La langue française est une femme
Et cette femme est si belle
Et cette femme est si fière
Et cette femme est si modeste

Et cette femme est si hardie
Et cette femme est si touchante
Et cette femme est si chaste
Et cette femme est si noble

Et cette femme est si familière
Et cette femme est si folle
Et cette femme est si sage
Qu'on n'est jamais tenté
De lui être infidèle.

La langue française est une femme. Et cette femme est si belle, si fière, si modeste, si hardie, touchante, voluptueuse, chaste, noble, familière, folle, sage, qu'on l'aime de toute son âme, et qu'on n'est jamais tenté de lui être infidèle.


THÉRA*

Túi da dê này đựng rượu đầy căng
Nguồn nước sống làm từ nho chín mọng
Théra màu đen căng mình trên sóng
Dưới mặt trời vàng trên bọt biển xanh. 

Théra giờ không còn đào kim nương 
Và ngải đắng, sồi xanh không còn nữa
Từ ngày hiện những mạch nguồn nứt nẻ
Thì Diêm Vương đã phun lửa không ngừng. 

Vầng trán cau có nhuốm một màu hồng
Giữa đôi gò bồng đảo dòng suối nhỏ
Như những nữ thần Bacchante hoang dã
Với những chùm nho nguyên vẹn bên hông.   
___________
*Théra là tên cổ điển của đảo Santorini – một hòn đảo ở miền nam biển Aegea, cách Hy Lạp lục địa 200 km. Théra cổ điển với nghề nấu rượu nho ngon nổi tiếng.   
** Bacchante (hay Menades) – những người đồng hành và những người hâm mộ Dionysus, là vị thần của rượu nho. 

Théra

Cette outre en peau de chèvre, ô buveur, est gonflée
De l'esprit éloquent des vignes que Théra,
Se tordant sur les flots, noire, déchevelée
Étendit au puissant soleil qui les dora.

Théra ne s'orne plus de myrtes ni d'yeuses,
Ni de la verte absinthe agréable aux troupeaux,
Depuis que, remplissant ses veines furieuses,
Le feu plutonien l'agite sans repos.

Son front grondeur se perd sous une rouge nue ;
Des ruisseaux dévorants ouvrent ses mamelons ;
Ainsi qu'une Bacchante, elle est farouche et nue,
Et sur ses flancs intacts roule des pampres blonds.