Thứ Ba, 26 tháng 5, 2020

Thơ tình Charles Baudelaire

TRÍCH TỪ
Nỗi buồn Paris – Những bài thơ văn xuôi nhỏ 
(Le Spleen de Paris – Petits Poèmes en prose)


XVII. Một nửa thế giới trong mái tóc

Hãy cho phép anh hít vào thật lâu mùi hương của mái tóc em, dìm gương mặt của mình trong trong mái tóc, giống như kẻ lữ hành trong cơn khát đang cúi xuống mạch nước nguồn và vẫy vẫy chúng như một chiếc khăn đượm mùi hương, để cho kỷ niệm rơi vãi lung tung ra giữa bầu không khí.

Giá mà em biết ra tất cả những gì anh đang nhìn thấy! tất cả những gì anh cảm thấy! tất cả những gì anh nghe ra trong mái tóc của em! Linh hồn của anh lang thang giữa những mùi hương, giống như linh hồn của những người khác lang thang trong tiếng nhạc.

Mái tóc của em gợi ra những điều mơ ước mà trong đó có những cánh buồm, những cột buồm và biển cả mênh mông, nơi có những cơn gió mùa mang anh về những miền đất kỳ diệu, nơi không gian xanh hơn và sâu hơn, nơi không khí thơm ngát mùi hương của trái cây, của lá và của da thịt con người. 

Trong đại dương của mái tóc em, anh mơ màng thấy một bến cảng xa xôi tràn ngập những bài hát u hoài, những chàng trai mạnh mẽ đến từ mọi quốc gia và những con tàu đủ kiểu, những đường nét muôn hình muôn vẻ dưới bầu trời rộng mở, nơi mùa hè muôn thuở.  

Khi vuốt ve mái tóc của em, anh lại nhớ về vẻ mệt mỏi dài lâu khi nằm trên đi văng trong buồng ngủ của một con tàu đẹp, vẻ dập dờn vì sóng nước giữa những chậu hoa, giữa những bình nước mát.  

Trong vẻ oi nồng của mái tóc em, anh hít thở mùi thuốc lá trộn với thuốc phiện và đường; trong màn đêm của mái tóc em anh thấy ánh lên sự vô tận của màu thiên thanh miền nhiệt đới; còn trên những bờ mềm mại của mái tóc em, anh đắm chìm trong mùi hương hỗn hợp của nhựa thông, của dầu dừa và của xạ hương. 

Hãy để anh cắn thật lâu mái tóc đen dài và nặng của em. Khi anh gặm những sợi tóc của em, dẻo dai và ngang bướng, anh ngỡ rằng mình đang ăn kỷ niệm. 

Un hémisphère dans une chevelure

Laisse-moi respirer longtemps, longtemps, l’odeur de tes cheveux, y plonger tout mon visage, comme un homme altéré dans l’eau d’une source, et les agiter avec ma main comme un mouchoir odorant, pour secouer des souvenirs dans l’air.

Si tu pouvais savoir tout ce que je vois ! tout ce que je sens ! tout ce que j’entends dans tes cheveux ! Mon âme voyage sur le parfum comme l’âme des autres hommes sur la musique.

Tes cheveux contiennent tout un rêve, plein de voilures et de mâtures ; ils contiennent de grandes mers dont les moussons me portent vers de charmants climats, où l’espace est plus bleu et plus profond, où l’atmosphère est parfumée par les fruits, par les feuilles et par la peau humaine.

Dans l’océan de ta chevelure, j’entrevois un port fourmillant de chants mélancoliques, d’hommes vigoureux de toutes nations et de navires de toutes formes découpant leurs architectures fines et compliquées sur un ciel immense où se prélasse l’éternelle chaleur.
Dans les caresses de ta chevelure, je retrouve les langueurs des longues heures passées sur un divan, dans la chambre d’un beau navire, bercées par le roulis imperceptible du port, entre les pots de fleurs et les gargoulettes rafraîchissantes.

Dans l’ardent foyer de ta chevelure, je respire l’odeur du tabac mêlé à l’opium et au sucre ; dans la nuit de ta chevelure, je vois resplendir l’infini de l’azur tropical ; sur les rivages duvetés de ta chevelure je m’enivre des odeurs combinées du goudron, du musc et de l’huile de coco.

Laisse-moi mordre longtemps tes tresses lourdes et noires. Quand je mordille tes cheveux élastiques et rebelles, il me semble que je mange des souvenirs.


XXXIII. Hãy say!

Luôn luôn cần phải say. Trong điều này là tất cả: đó là nhiệm vụ duy nhất. Để không cảm thấy gánh nặng khủng khiếp của Thời gian đang đè nặng trên vai bạn, làm bạn cúi gập xuống đất, cần phải không ngừng say.

Nhưng say bằng gì? Say bằng rượu vang, bằng thơ ca hay là sự thật – bằng cái gì cũng được. Nhưng hãy say!

Và nếu đôi khi, trên bậc thềm của một cung điện, trên bãi cỏ xanh bên bờ mương, trong sự cô đơn ảm đạm của căn phòng, khi thức dậy bạn cảm thấy rằng cơn say đã dịu đi hoặc đã không còn nữa thì bạn hãy đi hỏi gió, hỏi sóng, hỏi những con chim, hỏi những vì sao, hỏi chiếc đồng hồ, hỏi tất cả những gì đang chạy, hỏi tất cả những gì đang rên rỉ, hỏi tất cả những gì đang chuyển động, tất cả những gì đang hát, tất cả những gì đang nói – và hãy hỏi mấy giờ rồi; và gió, sóng, những con chim, những vì sao và đồng hồ sẽ trả lời cho bạn: “Đây là lúc say! Để không trở thành nô lệ của Thời gian, hãy say, hãy say sưa không ngừng! Say bằng rượu vang, bằng thơ ca hay bằng sự thật – bằng cái gì cũng được”. 

Enivrez-vous

Il faut être toujours ivre. Tout est là : c’est l’unique question. Pour ne pas sentir l’horrible fardeau du Temps qui brise vos épaules et vous penche vers la terre, il faut vous enivrer sans trêve.

Mais de quoi ? De vin, de poésie ou de vertu, à votre guise. Mais enivrez-vous.

Et si quelquefois, sur les marches d’un palais, sur l’herbe verte d’un fossé, dans la solitude morne de votre chambre, vous vous réveillez, l’ivresse déjà diminuée ou disparue, demandez au vent, à la vague, à l’étoile, à l’oiseau, à l’horloge, à tout ce qui fuit, à tout ce qui gémit, à tout ce qui roule, à tout ce qui chante, à tout ce qui parle, demandez quelle heure il est ; et le vent, la vague, l’étoile, l’oiseau, l’horloge, vous répondront : « Il est l’heure de s’enivrer ! Pour n’être pas les esclaves martyrisés du Temps, enivrez-vous ; enivrez-vous sans cesse ! De vin, de poésie ou de vertu, à votre guise. »


XXXVI. Khát khao thể hiện

Có thể là một người bất hạnh, nhưng là một nghệ sĩ hạnh phúc với khao khát của mình!

Tôi khát khao thể hiện một nàng mà hiếm khi xuất hiện trước mắt tôi và ra đi nhanh chóng, tựa hồ như một quang cảnh đẹp, thấp thoáng phút chốc trước mắt kẻ du hành rồi biến vào đêm. Đã bao nhiêu thời gian, kể từ ngày nàng biến mất!

Nàng xinh đẹp, và trên cả tuyệt vời: nàng gây sửng sốt. Màu sắc của nàng là màu đen, đấy là tất cả những gì truyền cảm hứng cho nàng, thể hiện chiều sâu và vẻ u ám của đêm. Đôi mắt của nàng là hai hang động tối tăm, nơi xuất phát những điều bí ẩn mơ hồ thấp thoáng, ánh nhìn của nàng giống như tia chớp đang lấp lánh; đấy là sự bùng phát của ánh sáng giữa bóng đêm.

Giá mà tôi được so sánh nàng với một mặt trời đen, giá mà tôi có thể hình dung ra một tinh cầu đen đang rót ra ánh sáng và niềm hạnh phúc. Nhưng có lẽ nàng gợi ra ý nghĩ về mặt trăng, mà không nghi ngờ, đã trao cho nàng quyền lực định mệnh của mình; nhưng không phải mặt trăng tái nhợt điền viên giống như một cô dâu lạnh lùng, mà là mặt trăng nham hiểm và say mê mẩn đang nhìn từ trong sâu thẳm của đêm giông xuyên qua những đám mây đang chạy nhanh; không phải mặt trăng tĩnh lặng và dịu êm đang canh giấc nồng cho những người ngoạn đạo, mà là mặt trăng bị đuổi từ trời xanh, bị đánh bại và lại nổi khùng, cùng với nó là những phù thủy Thessalian đang nhảy múa trên bãi cỏ vì sợ hãi đang dần chết.

Trên vầng trán thấp của nàng có một sự kiên gan và khát khao nô dịch. Nhưng trên gương mặt không yên này, nơi hai lỗ mũi đung đưa thở ra một mùi hương lạ lùng không thể tả, cái miệng của nàng cười to hết cỡ, màu trắng và màu đỏ của cái miệng này cho phép nghĩ về một bông hoa đẹp lạ kỳ nở trong đất núi lửa. 

Có những người phụ nữ gợi ra niềm khát khao chinh phục họ và thưởng thức họ; nhưng có để làm gì, tôi chỉ muốn được chết từ từ dưới ánh mắt của nàng say đắm.

Le Désir de peindre

Malheureux peut-être l’homme, mais heureux l’artiste que le désir déchire !

Je brûle de peindre celle qui m’est apparue si rarement et qui a fui si vite, comme une belle chose regrettable derrière le voyageur emporté dans la nuit. Comme il y a longtemps déjà qu’elle a disparu !

Elle est belle, et plus que belle ; elle est surprenante. En elle le noir abonde : et tout ce qu’elle inspire est nocturne et profond. Ses yeux sont deux antres où scintille vaguement le mystère, et son regard illumine comme l’éclair : c’est une explosion dans les ténèbres.

Je la comparerais à un soleil noir, si l’on pouvait concevoir un astre noir versant la lumière et le bonheur. Mais elle fait plus volontiers penser à la lune, qui sans doute l’a marquée de sa redoutable influence ; non pas la lune blanche des idylles, qui ressemble à une froide mariée, mais la lune sinistre et enivrante, suspendue au fond d’une nuit orageuse et bousculée par les nuées qui courent ; non pas la lune paisible et discrète visitant le sommeil des hommes purs, mais la lune arrachée du ciel, vaincue et révoltée, que les Sorcières thessaliennes contraignent durement à danser sur l’herbe terrifiée !

Dans son petit front habitent la volonté tenace et l’amour de la proie. Cependant, au bas de ce visage inquiétant, où des narines mobiles aspirent l’inconnu et l’impossible, éclate, avec une grâce inexprimable, le rire d’une grande bouche, rouge et blanche, et délicieuse, qui fait rêver au miracle d’une superbe fleur éclose dans un terrain volcanique.

Il y a des femmes qui inspirent l’envie de les vaincre et de jouir d’elles ; mais celle-ci donne le désir de mourir lentement sous son regard.


XXXVIII. Đâu là người thật?

Tôi từng quen biết với một cô gái có tên là Benedicta, người cứ ngỡ như là sự thể hiện của lý tưởng, người có đôi mắt khiêu gợi lòng khát khao hướng tới sự vĩ đại, vẻ đẹp, sự nổi tiếng và tất cả những gì buộc người ta tin vào sự bất tử.

Nhưng cô gái kỳ diệu này là quá đẹp, để mà sống được lâu; và nàng đã chết chỉ mấy ngày sau khi tôi làm quen với nàng, và tôi đã chôn nàng trong một ngày, khi mà mùa xuân vẫy lư hương của mình vào nghĩa trang. Tôi chôn nàng vào đất trong chiếc quan tài bằng gỗ thơm và không thể mục, giống như cái rương của người Ấn Độ.

Và khi đôi mắt của tôi vẫn còn chăm chú nhìn vào nơi mà tôi chôn kho báu của mình, thì bỗng nhiên tôi nhìn thấy một người phụ nữ nhỏ nhắn, rất giống với người vừa qua đời; người này dẫm đôi chân trên đất còn tươi, với một vẻ cuồng loạn và khó hiểu, vừa cười to vừa nói: “Đây là tôi, là Benedicta chân chính! Đây là tôi, kẻ vô lại nổi tiếng! Và để trừng phạt sự điên rồ của ngươi, sự mù quáng của ngươi, ngươi sẽ yêu tôi như là tôi vốn có!”

Nhưng tôi đã giận dữ trả lời: “Không! Không! Không thể!” Và để làm tăng thêm sự từ chối của mình, tôi dùng chân đạp một cách điên cuồng vào đất, làm cho người vừa chết biến ngay vào ngôi mộ đất còn tươi rói, và giống như một con sói bị sa vào bẫy, tôi bị trói, có thể là mãi mãi, vào ngôi mộ của Lý tưởng!

Laquelle est la vraie?

J’ai connu une certaine Bénédicta, qui remplissait l’atmosphère d’idéal, et dont les yeux répandaient le désir de la grandeur, de la beauté, de la gloire et de tout ce qui fait croire à l’immortalité.

Mais cette fille miraculeuse était trop belle pour vivre longtemps ; aussi est-elle morte quelques jours après que j’eus fait sa connaissance, et c’est moi-même qui l’ai enterrée, un jour que le printemps agitait son encensoir jusque dans les cimetières. C’est moi qui l’ai enterrée, bien close dans une bière d’un bois parfumé et incorruptible comme les coffres de l’Inde.

Et comme mes yeux restaient fichés sur le lieu où était enfoui mon trésor, je vis subitement une petite personne qui ressemblait singulièrement à la défunte, et qui, piétinant sur la terre fraîche avec une violence hystérique et bizarre, disait en éclatant de rire : « C’est moi, la vraie Bénédicta ! C’est moi, une fameuse canaille ! Et pour la punition de ta folie et de ton aveuglement, tu m’aimeras telle que je suis ! »

Mais moi, furieux, j’ai répondu : « Non ! non ! non ! » Et pour mieux accentuer mon refus, j’ai frappé si violemment la terre du pied que ma jambe s’est enfoncée jusqu’au genou dans la sépulture récente, et que, comme un loup pris au piége, je reste attaché, pour toujours peut-être, à la fosse de l’idéal.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét