Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Anh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Anh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Thơ tình Thomas Carew


XIN ĐỪNG HỎI NỮA
 
Em đừng hỏi tôi vì sao không còn
Vẻ đẹp của hoa hồng trong tháng sáu
Vẻ đẹp này vẫn còn trên đôi má
Trong nụ cười, trong ánh mắt của em.
 
Xin đừng hỏi đâu rồi ánh bình minh
Mà em đi tìm vẫn không tìm thấy
Màu của bình minh tuyệt vời như vậy
Đã ẩn vào trong mái tóc của em.
 
Xin đừng hỏi đâu rồi những bầy chim
Mà tiếng hót vẫn làm ta thích thú
Những bầy chim bây giờ đang trú ngụ
Tránh mùa đông trong thanh quản của em.
 
Xin đừng hỏi tại vì sao không còn
Những ngôi sao từ trên trời rơi xuống
Những ngôi sao này giờ đang tỏa sáng
Đêm cũng như ngày trong đôi mắt em.
 
Xin đừng hỏi phượng hoàng bay về đâu
Làm tổ cho mình trước khi phải chết
Chim sẽ bay về với em trên ngực
Hít thở bằng em và để ngủ say.
 
Ask me no more where Jove bestows
 
Ask me no more where Jove bestows,
When June is past, the fading rose;
For in your beauty’s orient deep
These flowers, as in their causes, sleep.
 
Ask me no more whither do stray
The golden atoms of the day;
For in pure love heaven did prepare
Those powders to enrich your hair.
 
Ask me no more whither doth haste
The nightingale, when May is past;
For in your sweet dividing throat
She winters, and keeps warm her note.
 
Ask me no more where those stars ’light,
That downwards fall in dead of night;
For in your eyes they sit, and there
Fixed become, as in their sphere.
 
Ask me no more if east or west
The phoenix builds her spicy nest;
For unto you at last she flies,
And in your fragrant bosom dies.
 
 


CHỐNG LẠI SỰ ĐIỀU ĐỘ TRONG TÌNH YÊU
 
Cho tôi yêu hơn hoặc khinh bỉ hơn
Cơn nóng nhiệt đới hoặc vùng đóng băng
Tôi cần cuộc sống bên lề thái cực
Tâm hồn không chịu được sự bình bình
Chỉ cực đoan – hoặc là yêu hoặc ghét
Chỉ thái cực kích thích được tinh thần.
 
Cho tôi cơn bão, nếu đó là tình
Như Danae, tôi vô cùng hạnh phúc
Và nếu tiếng sấm của sự khinh thường
Cuốn hy vọng như cơn mưa trút nước
Tôi chỉ cảm thấy rằng mình hạnh phúc
Một trong hai – địa ngục hoặc thiên đường.
 
Hoặc là đau đớn hoặc là hân hoan
Cho tôi yêu hơn hoặc khinh bỉ hơn.
 
Mediocrity in Love Rejected
 
Give me more love or more disdain;
The torrid, or the frozen zone,
Bring equal ease unto my pain;
The temperate affords me none;
Either extreme, of love, or hate,
Is sweeter than a calm estate.
 
Give me a storm; if it be love,
Like Danae in that golden show'r
I swim in pleasure; if it prove
Disdain, that torrent will devour
My vulture-hopes; and he's possess'd
Of heaven, that's but from hell releas'd.
 
Then crown my joys, or cure my pain;
Give me more love, or more disdain.
 


Thơ tình John Suckling

 



TÌNH YÊU BỊ TỪ CHỐI
 
Cách đây chừng bốn năm thôi
Tôi nói trả bốn mươi bảng
Để vui thâu đêm suốt sáng
Nhưng em từ chối, chau mày.
 
Nhưng rồi sau đó hai năm
Tôi gặp lại người bạn cũ
Em nói: nếu anh đồng ý
Em sẽ vui vẻ với anh.
 
Tôi nói: anh lạnh như băng
Nên cũng không mong gì lắm
Và giá cả nên hạ xuống
Chỉ hai mươi bảng, không hơn.
 
Và chừng ba tháng sau đó
Cô em từng rất khiêm nhường
Đến tìm tôi và nói rằng:
Bây giờ thì em đồng ý.
 
Còn tôi nói: sao muộn vậy
Cảm giác tội lỗi gì chăng
Tôi chấp nhận sự ăn năn
Nhưng chỉ với một nửa giá!
 
Thế rồi sớm mai thức dậy
Em bước đến giường của tôi
Đồng ý cho không cuộc đời
Con gái vô cùng quí giá.
 
Mặc dù trong lần đầu tiên
Tôi nói trả bốn mươi bảng
Giờ có vẻ không quan trọng
Món quà quí gấp nghìn lần.
 
Proferred Love Rejected
 
IT is not four years ago,
I offer'd forty crowns
To lie with her a night or so:
She answer'd me in frowns.
 
Not two years since, she meeting me
Did whisper in my ear,
That she would at my service be,
If I contented were.
 
I told her I was cold as snow,
And had no great desire;
But should be well content to go
To twenty, but no higher.
 
Some three months since, or thereabout,
She that so coy had been
Bethought herself and found me out,
And was content to sin.
 
I smil'd at that, and told her I
Did think it something late,
And that I 'd not repentance buy
At above half the rate.
 
This present morning early she
Forsooth came to my bed,
And gratis there she offer'd me
Her high-priz'd maidenhead.
 
I told her that I thought it then
Far dearer than I did,
When I at first the forty crowns
For one night's lodging bid.
 
 
SAO XANH XAO NHỢT NHẠT
 
Sao xanh xao, nhợt nhạt?
Vì sao bạn vô hồn?
Bạn xanh xao, nhợt nhạt
Mà quyến rũ tình nhân?
Vì sao bạn vô hồn?
 
Sao bạn buồn, tội nhân?
Tại vì sao im lặng?
Nếu lời không dễ thương
Sao quyến rũ tình nhân?
Tại vì sao im lặng?
 
Bỏ! Người yêu xinh đẹp
Bạn không vui với mình
Thì nỗ lực vô ích
Hãy để cho người thương
Quỉ mang về địa ngục!
 
Why So Pale and Wan, Fond Lover?
(Song from Aglaura)
 
Why so pale and wan, fond lover?
Prithee, why so pale?--
Will, when looking well can't move her,
Looking ail prevail?
Prithee, why so pale?
 
Why so dull and mute, young sinner?
Prithee, why so mute?--
Will, when speaking well can't win her,
Saying nothing do't?
Prithee, why so mute?
 
Quit, quit, for shame! this will not move,
This cannot take her--
If of herself she will not love,
Nothing can make her:
The Devil take her!
 
 


NGƯỜI LÍNH
 
Thông thạo ngoài chiến trường
Tôi là người lính trận
Dù bên sai, bên đúng
Vẫn chiến đấu hết mình.
 
Bạn gái không ở gần
Tôi không ưa thề thốt
Phụ nữ tôi chinh phục
Theo cách của riêng mình.
 
Tôi không thích huyên thuyên
Chỉ bắt tay vào việc
Nếu ai còn ngờ vực
Tôi có thể chứng minh.
 
Và tôi dám nói rằng
Đạn của mình tôi bắn
Cho dù ai đau đớn
Chỉ bởi vì yêu thương.
 
A Soldier
 
I am a man of war and might,
And know thus much, that I can fight,
Whether I am in the wrong or right,
Devoutly.
 
No woman under heaven I fear,
New oaths I can exactly swear,
And forty healths my brain will bear
Most stoutly.
 
I cannot speak, but I can do
As much as any of our crew,
And, if you doubt it, some of you
May prove me.
 
I dare be bold thus much to say,
If that my bullets do but play,
You would be hurt so night and day,
Yet love me.
 


Thơ tình Coventry Patmore


NỤ HÔN
 
“Ta thấy hắn hôn em!” “Quả là như vậy”
“Sao lại như thế được!” “Phép tắc tôi vẫn giữ
Hắn nghĩ tôi đang ngủ hoặc ít ra cho rằng
Tôi nghĩ rằng hắn nghĩ là tôi đang ngủ”.
___________
*Hiện tại chúng tôi cảm thấy bất lực khi chuyển đầy đủ ý của bài thơ này một cách trôi chảy ra tiếng Việt. Tôi nhớ lại một câu nói vui: “Tôi ngoái lại nhìn xem nàng có ngoái lại để nhìn xem tôi có ngoái lại nhìn nàng”, có thể được lấy từ ý của bài thơ này. 
 
The Kiss
 
'I saw you take his kiss!' ''Tis true.'
'O, modesty!' ' 'Twas strictly kept:
He thought me asleep; at least I knew
He thought I thought he thought I slept.'
 
 
GIẢI MÃ ĐIỀU BÍ ẨN
 
Bạn tự hỏi lòng sao người ta yêu bạn
Vì bạn không yêu ai nên bạn ngạc nhiên
Ta yêu người vì việc tốt mà ta làm
Chứ không vì việc người ta làm cho bạn!
 
A Riddle Solved
 
Kind souls, you wonder why, love you,
When you, you wonder why, love none.
We love, Fool, for the good we do,
Not that which unto us is done!
 
 


NGƯỜI ĐẸP CỦA TÔI
 
Vĩnh biệt tình yêu! Tôi phải đi rồi
Người yêu của tôi ơi, vĩnh biệt!
Giá tôi được ở lại vì tôi yêu người
Cho tôi một nụ hôn ơi người đẹp!
 
Hy vọng có còn, ta không biết được
Em thân yêu, ai nói được điều này?
Anh yêu em, cho anh rồi hãy khóc:
“Người đã từng yêu, từng rất yêu tôi!”
 
Ma Belle
 
Farewell, dear Heart! Since needs it must I go,
Dear Heart, farewell!
Fain would I stay, but that I love thee so.
One kiss, ma Belle!
 
What hope lies in the Land we do not know,
Who, Dear, can tell?
But thee I love, and let thy 'plaint be, 'Lo,
He loved me well!'
 
 
PHẦN THƯỞNG CHO SỰ CHUNG THỦY
 
Tôi thề lòng chung thủy của tôi không thay đổi
Tôi sẽ không xúc phạm em bằng cách dối lừa
Và sự thay đổi khẩu vị mà em thưởng cho tôi
Thì những Đông Gioăng không bao giờ mơ tới.
 
Constancy Rewarded
 
I vow’d unvarying faith, and she
To whom in full I pay that vow,
Rewards me with variety
Which men who change can never know.
 
 
SỰ HOANG PHÍ
 
Em là người phụ nữ rất hoang phí!
Đáng lẽ em phải định giá cho mình
Biết cách chọn ai có thể trả tiền
Cõi thiên đường của mình đem bán rẻ
Ngọn lửa thiêng đem biến thành hàng hóa
Làm hỏng bánh mì, rót phí rượu vang
Nếu biết giữ gìn thì em có thể
Biến thú nên người, người trở thành tiên.

Unthrift

Ah, wasteful woman, she who may
On her sweet self set her own price,
Knowing men cannot choose but pay,
How she has cheapen'd paradise;
How given for nought her priceless gift,
How spoil'd the bread and spill'd the wine,
Which, spent with due, respective thrift,
Had made brutes men, and men divine.


Thơ tình Edmund Gosse




BALLAD VỀ CÁC THÀNH PHỐ ĐÃ CHẾT
 
          Gửi A. L.
 
Những thành phố ở đồng bằng giờ đâu?
Những đền thờ của Bethel giờ đâu tá?
Và thành Calah của Tubal-Cain?
Và xứ Shinar, khi vua Amraphel
Đã mang quân ra trận và gục ngã
Vào mồi nhử, những hố nhờn bằng nhựa
Ở Siddim, xuống địa ngục lúc sau
Những thành phố thời xưa cũ giờ đâu?
 
Ngôi đền vĩ đại ở Karnak giờ đâu
Vẻ hùng vĩ trên những hàng cột đá?
Và thành phố Luxor hoang tàn giữa
Những dòng chữ thiêng im lặng không lời?
Chỉ tiếng chó rừng và tiếng cú vọ thôi
Những con rắn đen thui chui trong đá
Như trong vỏ sò âm thanh buồn tẻ
Những thành phố xưa giờ ở đâu rồi?
 
Và Kinh đô Shushan trắng xóa giờ đâu
Nơi hoàng hậu Vashti xin chồng dự tiệc
Người Do Thái mang những đồ cống nạp
Cho thủ quĩ Mithridath – ngũ cốc và dầu
Còn Nehemiah cảm thấy mừng vui
Được truyền cảm hứng bằng lời của Chúa
Để quay về thành phố linh thiêng cũ?
Những thành phố xưa giờ ở đâu rồi?
 
LỜI GỬI
 
Hoàng tử ơi tiếng chuông vọng u hoài
Về những nhọc nhằn và biết bao tội ác
Con sóng lãng quên dâng lên tràn ngập:
Những thành phố xưa giờ ở đâu rồi?
______________

*Vì đây là những thành phố cổ trong Kinh Thánh nên chúng tôi phiên âm theo bản Kinh Thánh tiếng Việt, tuy nhiên trong các bản dịch Kinh Thánh khác nhau thì mỗi nơi phiên âm một kiểu, chưa có sự thống nhất. Do vậy trong bản dịch thơ chúng tôi để tên riêng theo nguyên bản, chỉ phiên âm ở phần chú thích và dẫn nguồn theo bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt phổ biến nhất hiện nay.
1) Những thành phố ở đồng bằng – đây là hai thành phố: Sô-đôm và Giô-mô-sơ trong Kinh Thánh.
2) Bethel (Bê-tên) – thành phố ở phía bắc Giê-su-xa-lem, tên cũ là Lu-xơ (Sáng Thế Ký: 28,19).
3) Calah (Ca-lách) – một trong những thành phố do Nim-rốt lập nên (Sáng Thế Ký: 10,11).
4) Tubal-Cain (Tu-banh-Ca-in) – một người thợ rèn được nhắc đến ở (Sáng Thế Ký: 4,22).
5) Shinar (Si-nê-a) – vùng đất của hạ nguồn hai con sông Tigris và Euphrates (Sáng Thế Ký: 10,11).
6) Amraphel (Am-ra-phên) – vua của Si-nê-a, người đem quân đến đánh Sô-đôm và Giô-mô-sơ, bắt cóc Lót. (Sáng Thế Ký: 14,1-12).
7) Siddim (Si-điêm) – thung lũng có các thành phố Sô-đôm và Giô-mô-sơ, nay là một phần phía nam của biển Chết.
8) Karnak và Luxor – là những thành phố ở Ai Cập cổ đại.
9) Shushan (Su-sơ theo phiên âm Kinh Thánh; Susa theo Wikipedia tiếng Việt) – là thành phố, kinh đô cổ ở Ba Tư (Nê-hê-mi 1,1). 
10) Vashti (hoàng hậu Vả-thi) – người đã làm trái ý muốn của chồng mình là vua Ba Tư để hiện diện trong một bữa tiệc mà theo quy định thì phụ nữ không được phép, vì vậy bà bị phế truất. Esther (Ê-xơ-tê) thế chỗ. (Ê-xơ-tê 1, 12).
11) Mithridath – là thủ quỹ của vua Ba Tư Cyrus.
12) Nehemiah (Nê-hê-mi) – một trong những thủ lĩnh bị đày về Giê-su-sa-lem (E-xơ-ra 2, 2).
 
The Ballade of Dead Cities
 
To A. L.
 
Where are the cities of the plain?
And where the shrines of rapt Bethel?
And Calah built of Tubal-Cain?
And Shinar whence King Amraphel
Came out in arms and fought, and fell,
Decoyed into the pits of slime
By Siddim, and sent sheer to hell;
Where are the cities of old time?
 
Where now is Karnak, that great fane,
With granite built, a miracle?
And Luxor smooth without a stain,
Whose graven scripture still we spell?
The jackal and the owl may tell;
Dark snakes around their ruins climb,
They fade like echo in a shell;
Where are the cities of old time?
 
And where is white Shushan, again,
Where Vashti's beauty bore the bell,
And all the Jewish oil and grain
Were brought to Mithridath to sell,
Where Nehemiah would not dwell,
Because another town sublime
Decoyed him with her oracle?
Where are the cities of old time?
 
ENVOI
 
Prince, with a dolorous, ceaseless knell,
Above their wasted toil and crime
The waters of oblivion swell:
Where are the cities of old time?
 
 


VILLANELLE
 
Này cô gái nhỏ của tôi, vĩnh biệt!
Tôi đã từng là chim sẻ của em
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
 
Tôi xin em đừng phí hoài nước mắt
Cuộc sống của em chỉ có niềm vui
Này cô gái nhỏ của tôi, vĩnh biệt!
 
Cho tôi nằm dưới cây tùng cây bách
Ngọn cây cao vút trong khu vườn em
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
 
Ta yêu bầu trời tĩnh lặng màu xanh
Và ta yêu vẻ dịu dàng trong sáng
Cô gái của tôi ơi, vĩnh biệt em!
 
Tôi cảm thấy như vẫn nằm trên ngực
Và sưởi ấm từ bộ ngực trinh nguyên
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
 
Hãy để cho những con chim trong vườn
Sẽ nức nở về tôi và than khóc
Cô gái của tôi ơi, vĩnh biệt em!
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
 
Villanelle
 
Little mistress mine, good-bye!
I have been your sparrow true;
Dig my grave, for I must die.
 
Waste no tear and heave no sigh;
Life should still be blithe for you,
Little mistress mine, good-bye!
 
In your garden let me lie,
Underneath the pointed yew
Dig my grave, for I must die.
 
We have loved the quiet sky
With its tender arch of blue;
Little mistress mine, good-bye!
 
That I still may feel you nigh,
In your virgin bosom, too,
Dig my grave, for I must die.
 
Let our garden friends that fly
Be the mourners, fit and few.
Little mistress mine, good-bye!
Dig my grave, for I must die.


Thơ tình Robert William Service

 



ĐỨC MẸ CỦA TÔI
 
Tôi dẫn về nhà một cô gái điếm
Không biết xấu hổ nhưng rất dễ thương
Tôi bảo cô ấy ngồi lên ghế bành
Để tôi vẽ chân dung – ngồi đối diện.
 
Tôi vẽ theo hình Đức Mẹ đồng trinh
Tay bồng một đứa bé con trên ngực
Tôi vẽ điều thiện thay cho điều ác
Tôi vẽ cô như cô ấy đã từng.
 
Còn cô nhìn bức tranh rồi cười vang
Và sau đó cô bỏ đi đâu đấy
Một người sành sỏi đến xem và nói:
“Mẹ của Giê-su, Đức Mẹ đồng trinh”.
 
Tôi thêm lên đầu một vầng hào quang
Rồi tôi đem bức tranh này đi bán
Hình cô ấy treo trong nhà thờ Thánh
Hillaire – nơi bạn có thể nhìn.
 
My Madonna
 
I haled me a woman from the street,
Shameless, but, oh, so fair!
I bade her sit in the model's seat
And I painted her sitting there.
 
I hid all trace of her heart unclean;
I painted a babe at her breast;
I painted her as she might have been
If the Worst had been the Best.
 
She laughed at my picture and went away.
Then came, with a knowing nod,
A connaisseur, and I heard him say:
«'Tis Mary, the Mother of God».
 
So I painted a halo round her hair,
And I sold her and took my fee,
And she hangs in the church of Saint Hillaire,
Where you and all may see.
 
 


ANH EM SINH ĐÔI
 
John và James là hai anh em ruột
Một hôm ngọn lửa bốc cháy khắp làng
John chạy sang dập lửa giúp cho James
Khi trở về thì nhà mình cháy sạch.
 
Khi khắp thế giới nổ ra chiến tranh
John tình nguyện tham gia vào quân đội
Khi John nằm trong hầm vì bom dội
James ở nhà tìm kiếm việc kinh doanh.
 
John trở về nhà cụt mất một chân
Nhưng điều đó không làm anh lo lắng
Chỉ một điều không thể nào chấp nhận
James đã lấy mất cô gái của mình!
 
John kết bạn với rượu vì nỗi buồn
Còn James là một doanh nhân giàu có
Buôn với quân đội càng thêm giàu nữa
Còn John? Tìm Thợ gốm trên đồng.
 
The Twins
 
There were two brothers, John and James,
And when the town went up in flames,
To save the house of James dashed John,
Then turned, and lo! his own was gone.
 
And when the great World War began,
To volunteer John promptly ran;
And while he learned live bombs to lob,
James stayed at home and—sneaked his job.
 
John came home with a missing limb;
That didn’t seem to worry him;
But oh, it set his brain awhirl
To find that James had—sneaked his girl!
 
Time passed. John tried his grief to drown;
To-day James owns one-half the town;
His army contracts riches yield;
And John? Well, search the Potter’s Field.
 
 


FI FI TRÊN GIƯỜNG
 
Tôi nhìn vào trời đêm
Vô vàn ngôi sao nhỏ
Chúa Trời đang ở đó
Ngài cô đơn vô cùng!
 
Tôi nhảy nhót cả ngày
Đức Chúa Trời vĩ đại
Tôi vui vì nhận thấy
Tôi không phải Chúa Trời.
 
Tội nghiệp Chúa trên ngai
Chúa Trời yêu tất cả
Nhưng mình Chúa đơn lẻ
“Chúa ơi, con thương Ngài”.
 
Fi-Fi in Bed
 
Up into the sky I stare;
All the little stars I see;
And I know that God is there
O, how lonely He must be!
 
Me, I laugh and leap all day,
Till my head begins to nod;
He’s so great, He cannot play:
I am glad I am not God.
 
Poor kind God upon His throne,
Up there in the sky so blue,
Always, always all alone...
“Please, dear God, I pity You.”
 
 
NGƯỜI SUY TƯ
 
Tôi đi lang thang từ Đông sang Tây
Tôi xuôi phương Nam, ngược về phương Bắc
Niềm tự hào và đam mê thúc giục
Suốt đêm ngày không cho phép nghỉ ngơi.
 
Và tôi vẫn đi tìm kiếm khắp nơi
Một mái nhà cho mình, một tổ ấm
Bốn bức tường, một ngôi nhà tĩnh lặng…
“Bạn sẽ có nó – khi bạn qua đời”. 
 
The Wistful One
 
I sought the trails of South and North,
I wandered East and West;
But pride and passion drove me forth
And would not let me rest.
 
And still I seek, as still I roam,
A snug roof overhead;
Four walls, my own; a quiet home. . . .
"You'll have it -- when you're dead."