Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Thơ tình Oliver Goldsmith


BÀI CA
 
Khi người phụ nữ trở nên điên dại
Vì thấy đàn ông phản bội với mình
Khi người phụ nữ đau khổ vô cùng
Nghệ thuật nào sẽ giúp cho cô ấy?
 
Người phụ nữ luôn tìm ra phương thuốc
Để che xấu hổ trước mắt thế gian
Và không cho kẻ phản bội sống yên
Nghệ thuật này – chính là cái chết.
 
Song
(From 'The Vicar Of Wakefield')
 
WHEN lovely woman stoops to folly,
And finds too late that men betray,
What charm can soothe her melancholy,
What art can wash her guilt away?
 
The only art her guilt to cover,
To hide her shame from every eye,
To give repentance to her lover,
And wring his bosom, is -- to die.
 
 
VỀ CHÀNG TRAI ĐẸP BỊ MÙ VÌ SÉT ĐÁNH
 
Số phận anh đã xác định từ đầu
Được ông trời thương nhiều hơn là ghét
Anh trở nên mù như Thần Tình yêu
Để tránh số phận của Narcissus.
 
On a Beautiful Youth, Struck Blind by Lightning
 
Sure’t was by Providence design’d
Rather in pity than in hate,
That he should be, like Cupid, blind,
To save him from Narcissus’ fate.
 
 
HY VỌNG
 
Ta sống bằng hy vọng
Cho đến hết đời này
Trước cái chết, cơn đau
Vẫn cho ta mầm sống.
 
Hy vọng như ánh sáng
Của ngọn nến soi đường
Màn đêm càng tối đen
Ngọn nến càng tỏa sáng.
 
Hope
 
To the last moment of his breath
On Hope the wretch relies,
And even the pang preceding death
Bids Expectation rise.
 
Hope like the gleaming taper’s light
Adorns and cheers our way,
And still as darker grows the night
Emits a brighter ray.
 
 

TRẢ LỜI CỦA CHÚ HỀ
 
Hai chàng quí tộc hỏi John Trott:
“Tại vì sao lừa vẫn có đôi tai?”
John trả lời: “Tôi chẳng đọc sách nhiều
Cũng không mơ hiểu biết bằng ai cả
Nhưng từ nay, khi nhìn vào quí vị
Làm cho tôi nhớ đến những con lừa”.
 
The Clown's Reply
 
JOHN TROTT was desired by two witty peers
To tell them the reason why asses had ears?
'An't please you,' quoth John, 'I'm not given to letters,
Nor dare I pretend to know more than my betters;
Howe'er, from this time I shall ne'er see your graces,        
As I hope to be saved!  without thinking on asses.'
 
 
THƠ MỘ CHÍ CHO EDWARD PURDON
 
Ned Purdon nghèo yên nghỉ ở đây
Cả đời mình ông làm nghề bán sách
Ông đã sống một cuộc đời chết tiệt
Giá được trời ban ông cũng chẳng quay về.
 
Epitaph on Edward Purdon
 
HERE lies poor Ned Purdon, from misery freed,
Who long was a bookseller's hack;
He led such a damnable life in this world, --
I don't think he'll wish to come back.


Thơ tình Thomas Hood


GỬI NGƯỜI BẠN DỐI GIAN
 
Tay trong tay nhưng lòng ta xa cách
Đôi bàn tay không gặp nữa lần sau
Ta đã từng là bạn tốt của nhau
Nhưng sẽ không còn trong ngày phía trước.
 
Tôi biết rằng từng yêu em một thuở
Rằng tình tôi đã uổng phí, hoài công
Tay gặp gỡ nhưng mà xa cách lòng
Bàn tay ta không bao giờ gặp nữa.
 
Thôi vĩnh biệt bàn tay, trái tim em
Tôi không mong còn gặp nhau lần nữa
Ngay cả vẻ ngoài yêu thương như thế
Cũng phải ra đi với một chút buồn.
 
Dù vẫn ngỡ rằng là bạn của nhau
Nhưng điều gian dối làm sao quên được
Tay găp gỡ nhưng lòng ta xa cách
Chỉ mong rằng không gặp nữa lần sau!
 
To A False Friend
 
Our hands have met, but not our hearts;
Our hands will never meet again.
Friends, if we have ever been,
Friends we cannot now remain:
 
I only know I loved you once,
I only know I loved in vain;
Our hands have met, but not our hearts;
Our hands will never meet again!
 
Then farewell to heart and hand!
I would our hands had never met:
Even the outward form of love
Must be resign′d with some regret.
 
Friends, we still might seem to be,
If I my wrong could e′er forget;
Our hands have join′d but not our hearts:
I would our hands had never met!
 
 


BÀI XTĂNGXƠ
 
I
Vĩnh biệt đời! Đầu óc tôi u ám
Thế giới này mỗi lúc một tối tăm
Khi bóng tối bao trùm lên ánh sáng
Giống như đêm đang đến, đã rất gần.
 
Và mỗi lúc càng lạnh hơn, lạnh hơn
Trên cánh đồng lang thang làn khói xám
Mùi của đất đai bốc lên càng mạnh
Tôi ngửi mùi mốc trên những bông hồng.
 
II
Chào cuộc đời! Thấy phấn khởi trong lòng
Sức lực quay về với niềm hy vọng
Nỗi sợ màu đen chạy dài như bóng
Với vẻ vật vờ trước buổi bình minh.
 
Ánh mặt trời xua cái lạnh, bóng đêm
Và mùi hương ấm nồng trên mặt đất
Đang dần dà xua đi mùi chết chóc
Tôi ngửi mùi hương, mùi của hoa hồng!
 
Stanzas (Farewell life! my senses swim, ...)
 
Farewell life! my senses swim,
And the world is growing dim:
Thronging shadows cloud the light,
Like the advent of the night --
Colder, colder, colder still,
Upward steals a vapor chill;
Strong the earthy odor grows --
I smell the mould above the rose!
 
Welcome life! the spirit strives!
Strength returns and hope revives;
Cloudy fears and shapes forlorn
Fly like shadows at the morn, --
 
O'er the earth there comes a bloom;
Sunny light for sullen gloom,
Warm perfume for vapor cold --
I smell the rose above the mould!
1845
 
 
THƠ TRÀO PHÚNG
 
Sống với nhau thì xung khắc, bất đồng
Người ngạc nhiên sao Peter khóc vợ
Không ngạc nhiên, nước mắt tuôn trên mộ
Xua bụi đi, kẻo vợ sẽ hồi sinh.
 
Epigram
 
After such years of dissension and strife,
Some wonder that Peter should weep for his wife:
But his tears on her grave are nothing surprising, –
He’s laying her dust, for fear of its rising.


Thơ tình Alexander Pope


BÀI THƠ VỀ SỰ CÔ ĐƠN
 
Hạnh phúc cho người chỉ ước mong
Cấy cày trên đất của cha ông
Ai người hít thở bầu không khí
Trên đất, trên ruộng của riêng mình.
 
Ai người có sữa, lúa trên đồng
Có lông cừu chiên dệt áo quần
Có cây ngày hè cho bóng mát
Và cho lửa ấm giữa mùa đông.
 
Hạnh phúc cho người chẳng quan tâm
Mặc cho ngày tháng cứ trôi nhanh
Thân thể tráng cường, tâm trí sáng
Sống vui trong những tháng ngày êm.
 
Giấc ngủ thật sâu, thật nhẹ nhàng
Trong sự vô tư, sự bình yên
Chính sự vô tư này cho phép
Chỉ tôi suy nghĩ với chính mình.
 
Hãy để cho tôi sống vô danh
Để khỏi ai rơi giọt lệ buồn
Và để mai này, khi tôi chết
Hòn đá không ghi chỗ tôi nằm.
_____________
*Bài thơ này Pope viết năm lên 12 tuổi.
 
Ode on Solitude
 
Happy the man, whose wish and care
A few paternal acres bound,
Content to breathe his native air,
In his own ground.
 
Whose herds with milk, whose fields with bread,
Whose flocks supply him with attire,
Whose trees in summer yield him shade,
In winter fire.
 
Blest, who can unconcernedly find
Hours, days, and years slide soft away,
In health of body, peace of mind,
Quiet by day,
 
Sound sleep by night; study and ease,
Together mixed; sweet recreation;
And innocence, which most does please,
With meditation.
 
Thus let me live, unseen, unknown;
Thus unlamented let me die;
Steal from the world, and not a stone
Tell where I lie.
 
 


THƠ MỘ CHÍ CHO ISAAC NEWTON
 
Khi bóng tối bao trùm khắp thế gian
Chúa bảo: Sẽ có sự sáng. Và xuất hiện Newton!
 
Epitaph for Sir Isaac Newton
 
Nature and nature's laws lay hid in night:
God said, Let Newton be! and all was light.
 
Thường thì sau bài văn bia này là bài văn bia của nhà thơ John Collings Squire (1884 – 1958) về nhà bác học Albert Einstein (1879 – 1855) được coi là bài văn bia đối lại bài văn bia trên của Pope:
 
Nhưng Quỉ sứ không lâu sau trả thù:
“Einstein hãy đến!” và mọi thứ như xưa.
 
It did not last: the Devil howling "Ho!
Let Einstein be!" restored the status quo.
 
John Collings Squire,
Answer to Pope's Epitaph for Sir Isaac Newton
 
 
THƠ MỘ CHÍ CHO JOHN GAY*
 
Gay bất hạnh đã nằm trong mồ tối
John đáng thương đã có sự yên bình
Người đời đã thiếu công bằng với anh
Mười đổi một, anh cũng không quay lại.
___________
*John Gay (1685 – 1732) – Nhà thơ Anh, người đầu tiên viết ngụ ngôn bằng thơ.
 
Epitaph for John Gay
 
Well, then poor G- lies under ground!
So there's an end of honest Jack.
So little justice here he found,
'Tis ten to one he'll ne'er come back.
 

Thơ tình Walter Scott


HOA TÍM
 
Hoa tím dại len lỏi trong bóng râm
Giữa những cây phỉ, bạch dương san sát
Hoa có thể tự hào mình đẹp nhất
Dù ở đâu, trong thung lũng, trong rừng.
 
Đẹp lung linh trong buổi sớm mai hồng
Là đôi mắt màu xanh loài hoa tím
Nhưng tôi biết có đôi mắt xanh thắm
Lấp lánh qua dòng lệ ngọt ngào hơn.
 
Mặt trời mùa hè xua những giọt sương
Qua tia nắng đầu tiên từ sáng sớm
Dòng lệ trong mắt người yêu vừa chớm
Cũng qua mau như tất cả nỗi buồn.
1797
 
The Violet
 
The violet in her greenwood bower,
Where birchen boughs with hazel mingle,
May boast itself the fairest flower
In glen, or copse, or forest dingle.
 
Though fair her gems of azure hue,
Beneath the dew-drop's weight reclining;
I've seen an eye of lovelier blue,
More sweet through wat'ry lustre shining.
 
The summer sun that dew shall dry,
Ere yet the day be past its morrow;
No longer in my false love's eye
Remain'd the tear of parting sorrow.
 
 
CÔ GÁI BÊN HỒ TORO
 
Trên hồ Toro hoàng hôn cháy đỏ
Cây cối đã thôi xào xạc trong rừng
Cô gái đẹp với nỗi buồn gọi gió
Rồi khóc lên trước hồ nước mênh mông.
 
“Hỡi các vị thần thánh ở thiên đường
Các vị sống trong lâu đài hạnh phúc
Xin trả về chàng Henry của con
Hãy cứu chàng, hoặc Eleanor sẽ chết!”
 
Gió mang những âm thanh từ chiến trận:
Quân thù tấn công, giáo mác khua vang
Chút im lặng rồi lại trào như sóng
Những tiếng kêu than thảm thiết kinh hoàng.
 
Nàng nín thở đưa mắt nhìn phía rừng
Nàng thấy người lính bị thương đang đến
Vẻ mệt mỏi trong từng bước chân anh
Chiếc mũ trên đầu không còn nguyên vẹn.
 
“Cô gái ơi, em hãy tự cứu mình
Quân ta rút lui, quân thù đang tới
Henry dũng cảm của em đã nằm
Và chắc gì anh ấy còn đứng dậy!”
 
Nhìn tuyệt vọng trong mắt người lính kia
Nàng thấy mình bất lực bên hồ nước
Mặt trời ghé xuống trên hồ Toro
Vì lòng Dũng cảm và vì Cái đẹp.
1806
 
The Maid of Toro
 
O, low shone the sun on the fair lake of Toro,
And weak were the whispers that waved the dark wood,
All as a fair maiden, bewilder'd in sorrow,
Sorely sigh'd to the breezes, and wept to the flood.
"O, saints! from the mansions of bliss lowly bending;
Now grant my petition, in anguish ascending,
My Henry restore, or let Eleanor die!"
 
All distant and faint were the sounds of the battle,
With the breezes they rise, with the breezes they fail,
Till the shout, and the groan, and the conflict's dread rattle,
And the chase's wild clamour, came loading the gale.
Breathless she gazed on the woodlands so dreary;
Slowly approaching a warrior was seen;
Life's ebbing tide mark'd his footsteps so weary,
Cleft was his helmet, and woe was his mien.
 
"O, save thee, fair maid, for our armies are flying!
O, save thee, fair maid, for thy guardian is low!
Deadly cold on yon heath thy brave Henry is lying,
Scarce could he falter the tidings of sorrow,
And scarce could she hear them, benumb'd with despair:
And when the sun sunk on the sweet lake of Toro,
For ever he set to the Brave and the Fair.
 
 


CÔ GÁI TỪ NEIDPATH
 
Mắt người yêu sắc sảo
Tai người yêu tuyệt vời
Tình yêu biết cam chịu
Những cay đắng trong đời.
 
Mary với bệnh tật
Nỗi tuyệt vọng trị vì
Nàng đang ngồi trên tháp
Đợi người yêu quay về.
 
Đôi mắt đã nhạt nhòa
Vẻ đẹp tàn phai hẳn
Bàn tay không thể che
Ngọn nến đang chiếu sáng.
 
Chẳng còn những sắc màu
Trên má nàng tái nhợt
Cả thân hình xanh xao
Nàng như người sắp chết.
 
Nhưng nàng đợi người xa
Nhọc nhằn từng hơi thở
Trước cả chó, nàng nghe
Chàng đang dồn bước ngựa.
 
Vừa thấy người cưỡi ngựa
Nàng đưa mắt nhìn theo
Và qua ô cửa sổ
Đưa tay vẫy đón chào.
 
Chàng đến gần, lặng im
Như Mary chẳng có
Lời chào hỏi của nàng
Chìm trong tiếng vó ngựa.
 
Và chàng dồn bước ngựa
Bỏ lại tiếng thì thầm
Đôi môi nàng nức nở
Con tim nàng vỡ tung.
1806
 
The Maid of Neidpath
 
O lovers’ eyes are sharp to see,
And lovers’ ears in hearing;
And love, in life’s extremity,
Can lend an hour of cheering.
 
Disease had been in Mary’s bower
And slow decay from mourning,
Though now she sits on Neidpath’s tower
To watch her Love’s returning.
 
All sunk and dim her eyes so bright,
Her form decay’d by pining,
Till through her wasted hand, at night,
You saw the taper shining.
 
By fits a sultry hectic hue
Across her cheek was flying;
By fits so ashy pale she grew
Her maidens thought her dying.
 
Yet keenest powers to see and hear
Seem’d in her frame residing;
Before the watch-dog prick’d his ear
She heard her lover’s riding;
 
Ere scarce a distant form was kenn’d
She knew and waved to greet him,
And o’er the battlement did bend
As on the wing to meet him.
 
He came—he pass’d—an heedless gaze
As o’er some stranger glancing:
Her welcome, spoke in faltering phrase,
Lost in his courser’s prancing—
 
The castle-arch, whose hollow tone
Returns each whisper spoken,
Could scarcely catch the feeble moan
Which told her heart was broken.
  

DATUR HORA QUIETI*
 
Ánh hoàng hôn ghé xuống
Trên hồ, trên núi non
Chim chóc giờ im tiếng
Leonard, hãy nhanh chân.
 
Ai dậy buổi bình minh
Ra đồng, lo về sớm
Buổi hoàng hôn yên ấm
Chờ đợi sự yêu thương.
 
Cô gái trên tháp cao
Chờ đợi người yêu dấu
Áo giáp thép khi nào
Giữa bụi cây nhấp nháy.
 
Cô khác bên bờ ruộng
Đợi người yêu của mình
Khi nào sẽ thấp thoáng
Áo choàng của Colin.
 
Thiên nga tìm bạn vội
Sau một ngày cô đơn
Hươu đực gặp hươu cái
Liền rủ nhau vô rừng.
 
Ai ban ngày cô đơn
Khi màn đêm buông xuống
Vội vàng đi tìm bạn
Leonard, hãy nhanh chân.
1830
_____________
*Giờ nghỉ ngơi (tiếng Latin).
 
Datur Hora Quieti
 
The sun upon the lake is low,
The wild birds hush their song,
The hills have evening's deepest glow,
Yet Leonard tarries long.
 
Now all whom varied toil and care
From home and love divide,
In the calm sunset may repair
Each to the loved one's side.
 
The noble dame, on turret high,
Who waits her gallant knight,
Looks to the western beam to spy
The flash of armour bright.
 
The village maid, with hand on brow
The level ray to shade,
Upon the footpath watches now
For Colin's darkening plaid.
 
Now to their mates the wild swans row,
By day they swam apart,
And to the thicket wanders slow
The hind beside the hart.
 
The woodlark at his partner's side
Twitters his closing song -
All meet whom day and care divide,
But Leonard tarries long!
 
 
GỬI QUÍ CÔ – VỚI NHỮNG BÔNG HOA
TỪ BỨC TƯỜNG LA MÃ
 
Xưa nơi này những bông hoa đỏ thắm
Nhưng giờ đây thành lũy đã không còn
Những người con của tự do dũng cảm
Dưới lá cờ La Mã đã đấu tranh.
 
Không còn vòng nguyệt quế cho người lính
Nhưng vẫn còn đây những đóa hồng hoang
Từ những bông hoa này em hãy bện
Một vòng hoa cho tóc đẹp của mình.
1897
 
To a Lady - with Flowers from a Roman Wall
 
Take these flowers which, purple waving,
On the ruin'd rampart grew,
Where, the sons of freedom braving,
Rome's imperial standards flew.
 
Warriors from the breach of danger
Pluck no longer laurels there;
They but yield the passing stranger
Wild-flower wreaths the Beauty's hair.
  

Tình ca Bang Bang – My Baby Shot Me Down

 


Bang Bang – My Baby Shot Me Down - Khi Xưa Ta Bé - Sonny Bono - Claude Carrere - Georges Aber - Phạm Duy - Hồ Thượng Tuy  


Bang bang

Nous avions dix ans à peine
Tous nos jeux étaient les mêmes
Aux gendarmes et aux voleurs
Tu me visais droit au cœur

Bang bang, tu me tuais
Bang bang, et je tombais
Bang bang, et ce bruit-là
Bang bang, je ne l'oublierai pas

Nous avons grandi ensemble
On s'aimait bien il me semble
Mais tu n'avais de passion
Que pour tes jeux de garçon

Bang bang, tu t'amusais
Bang bang, je te suivais
Bang bang, et ce bruit-là
Bang bang, je ne l'oublierai pas

Un jour tu as eu vingt ans
Il y avait déjà longtemps
Que l'amour avait remplacé
Notre amitié du passé
Et quand il en vint une autre
On ne sait à qui la faute
Tu ne m'avais jamais menti
Avec elle tu es parti

Bang bang, tu m'as quittée
Bang bang, je suis restée
Bang bang, et ce bruit-là
Bang bang, je ne l'oublierai pas

Quand j'aperçois des enfants
Se poursuivre en s'amusant
Et faire semblant de se tuer
Je me sens le cœur serré

Bang bang, je me souviens
Bang bang, tout me revient
Bang bang, et ce bruit-là
Bang bang, je ne l'oublierai pas


Bang Bang

Ngày hai đứa ta lên mười
Ta thích chơi trò này nhất
Trò công an đi bắt quân trộm cướp
Và anh bắn ngay vào giữa tim này
Bang bang, anh giết chết em
Bang bang, em ngã trên sân
Bang bang, và tiếng súng
Bang bang, em sẽ không bao giờ quên.

Rồi theo thời gian hai đứa lớn lên
Ta yêu nhau như em vẫn ngỡ rằng
Nhưng mà anh chỉ lo mê mải
Với những trò chơi con trẻ của mình
Bang bang, anh vẫn quên mình
Bang bang, em đuổi theo anh
Bang bang, và tiếng súng
Bang bang, em sẽ không bao giờ quên.

Ngày ta tròn hai mươi tuổi
Xảy ra điều gì phải xảy
Một tình yêu đã thay cho
Tình bạn chúng mình ngày ấy
Và anh có thêm người mới
Chẳng biết ai người có lỗi
Anh chưa bao giờ dối em
Vẫn bỏ đi theo người ấy
Bang bang, anh đã bỏ em
Bang bang, bỏ em một mình
Bang bang, và tiếng súng
Bang bang, em sẽ không bao giờ quên.

Và khi em nhìn những đứa bé con
Chúng lại tiếp tục vui trò đuổi bắt
Khi nhìn thấy chúng giả vờ bị giết
Em thấy dường như thắt lại tim mình
Bang bang, và em hồi tưởng
Bang bang, kỷ niệm xưa bỗng hồi sinh
Bang bang, và tiếng súng
Bang bang, em sẽ không bao giờ quên.