Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Thơ tình Alfred Tennyson

 


CÔ TIÊN VÙNG SHALOTT
(The Lady of Shalott)

I
Ở hai bên bờ sông 
Có những đồng lúa mạch
Những cánh đồng tít tắp
Và có những con đường
Dẫn về Camelot. 
Những người đi trên đường
Ngắm những bông hoa đẹp.
Hoa huệ nở xung quanh
Hòn đảo vùng Shalott. 

Gió thổi rung mặt nước
Những cành liễu cúi mình
Dòng sông chảy vòng quanh
Cung điện Camelot.
Bốn bức tường xám ngắt
Bốn ngọn tháp uy nghiêm
Chúng ngước mắt nhìn lên
Rồi im lặng đứng nhìn
Cô tiên vùng Shalott. 

Liễu cúi trên mặt nước
Thuyền bè đang tấp nập
Cả thuyền lớn thuyền con
Và cả những chiếc xuồng
Đổ về Camelot.
Nhưng có ai nhìn được
Tiên bên cửa nhà mình
Hay trên bốn bức tường
Cô tiên vùng Shalott?

Chỉ những người thợ gặt
Trên những đồng lúa mạch
Sau tiếng hái, tiếng liềm
Nghe tiếng hát vang lên
Vọng về Camelot.
Khi cuối ngày mỏi mệt
Ngồi dưới ánh trăng thanh
Họ hát lên thì thầm:
“Cô tiên vùng Shalott”. 


II
Cả ngày đêm nàng dệt
Những tấm vải thần tiên
Tiếng thì thầm cho biết
Số kiếp ngăn cản nàng
Nhìn xuống Camelot. 
Không biết gì số kiếp
Nàng vẫn dệt ngày đêm
Ngồi sau những bức tường
Cô tiên vùng Shalott. 

Chỉ niềm vui duy nhất
Nhìn chiếc gương trước mặt
Thấy luân chuyển tháng năm
Những chiếc bóng, từng đoàn 
Đổ về Camelot. 
Dòng sông ngời bọt nước
Có bóng những đàn ông
Và bóng những cô nàng
Đi qua vùng Shalott.

Và trong từng khoảnh khắc
Trong chiếc gương trước mặt
Những chiếc bóng lướt nhanh
Đủ hạng người, từng dòng
Đổ về Camelot. 
Đôi khi thấy trong góc
Những hiệp sĩ oai hùng
Nhưng họ không nhìn tiên
Cô tiên vùng Shalott. 

Nhưng mà tiên vẫn thích
Nhìn vào gương ma thuật
Khi trong đêm lặng yên
Nhìn đám tang đau buồn
Đi về Camelot. 
Dưới ánh trăng trong vắt
Đôi tình nhân trẻ trung
“Tai họa!” – tiên kêu lên
Cô tiên vùng Shalott. 



III
Tên cung và khiên mộc
Leng keng bên áo giáp
Dưới mặt trời chói chang
Phóng như bay trên đồng
Oai hùng Lancelot.
Tên nàng trên áo giáp
Tên nàng khắc trên khiên
Giữa cánh đồng hoa vàng
Ở gần vùng Shalott. 

Chàng nhanh tay thúc giục
Ngựa bước chân dồn dập
Giữa hoàn vũ ánh vàng
Tiếng chuông cũng hân hoan
Trên đường Camelot.
Sáng ngời lên ánh bạc
Cây gươm bên hông chàng
Tiếng tù và ngân vang
Ở gần vùng Shalott. 

Giữa màu xanh trời đất
Yên ngựa ngời ánh bạc
Chiếc mũ trên đầu chàng
Như ngọn lửa cháy lên
Trên đường Camelott.
Như trong đêm tím ngát
Ngôi sao vút bay nhanh
Như một ngôi sao băng
Trên bầu trời Shalott. 

Vầng trán rộng của chàng 
Mái tóc dài đen mượt
Tất cả như ánh lên
Rạng ngời trên con đường
Dẫn về Camelot. 
Chàng cất lên tiếng hát
Hoa cỏ cũng lặng ngừng
“Tirra lira”, bên sông
Tiếng chàng Lancelot. 

Tiên bỗng ngừng tay đan
Rồi bước qua căn phòng
Tiên nhìn hoa huệ nước
Và tiên nhìn thấy chàng
Phóng về Camelot. 
Tấm vải thêu đã rách
Và gương vỡ tan tành
“Tai họa!” – tiên kêu lên
Cô tiên vùng Shalott. 



IV
Rừng buồn bã, úa vàng
Trong lời cơn gió khóc
Sông suối cũng đau buồn
Nặng trĩu bầu trời xanh
Bao trùm Camelot.
Tiên bước ra dòng nước
Nàng tìm một chiếc thuyền
Trên chiếc thuyền ghi tên:
Cô tiên vùng Shalott. 

Nàng đi theo con sông
Quên nỗi buồn số kiếp
Bất hạnh của riêng mình
Nàng ngồi trên dòng sông
Nhìn về Camelot. 
Và khi mặt trời tắt
Khi dưới ánh hoàng hôn
Con sông chở cô tiên
Cô tiên vùng Shalott. 

Bộ áo váy của nàng
Ánh lên như màu tuyết
Khi ánh sáng chiếu lên
Trong đêm thuyền của nàng 
Bơi về Camelot. 
Nàng cất lên tiếng hát
Những lời hát đau thương
Là bài hát cuối cùng
Cô tiên vùng Shalott. 

Tất cả như lặng ngừng
Khi lời ca im bặt
Dòng máu nóng đã ngưng
Và đôi mắt mơ màng
Hướng về Camelot. 
Nàng chết theo câu hát
Khi đến nhà đầu tiên
Khi đó đã không còn
Cô tiên vùng Shalott. 

Dưới ban công, dưới tháp
Hay bên những bức tường
Một bóng ma tái nhợt
Lặng lẽ và mơ màng
Đi vào Camelot.
Nghe tin, ngay lập tức
Dân chúng kéo đến đông
Họ xướng tên của nàng:
Cô tiên vùng Shalott. 

Ai đây? Điều gì đây?
Tất cả đều nguyện cầu
Tất cả đều sợ sệt
Nỗi sợ hãi bao trùm
Cư dân Camelot.
Nhưng lời Lancelot:
“Gương mặt nàng dễ thương
Hãy yên nghỉ linh hồn
Cô tiên vùng Shalott”. 





The Lady of Shalott

Part I
On either side the river lie
Long fields of barley and of rye,
That clothe the wold and meet the sky;
And through the field the road runs by
To many-towered Camelot;
And up and down the people go,
Gazing where the lilies blow
Round an island there below,
The island of Shalott.

Willows whiten, aspens quiver,
Little breezes dusk and shiver
Through the wave that runs for ever
By the island in the river
Flowing down to Camelot.
Four gray walls, and four gray towers,
Overlook a space of flowers,
And the silent isle imbowers
The Lady of Shalott.

By the margin, willow veiled
Slide the heavy barges trailed
By slow horses; and unhailed
The shallop flitteth silken-sailed
Skimming down to Camelot:
But who hath seen her wave her hand?
Or at the casement seen her stand? 25
Or is she known in all the land,
The Lady of Shalott?

Only reapers, reaping early
In among the bearded barley,
Hear a song that echoes cheerly
From the river winding clearly,
Down to towered Camelot:
And by the moon the reaper weary,
Piling sheaves in uplands airy,
Listening, whispers "'Tis the fairy
Lady of Shalott."

Part II
There she weaves by night and day
A magic web with colours gay.
She has heard a whisper say,
A curse is on her if she stay
To look down to Camelot.
She knows not what the curse may be,
And so she weaveth steadily,
And little other care hath she,
The Lady of Shalott.

And moving through a mirror clear
That hangs before her all the year,
Shadows of the world appear.
There she sees the highway near
Winding down to Camelot:
There the river eddy whirls,
And there the curly village-churls,
And the red cloaks of market girls,
Pass onward from Shalott.

Sometimes a troop of damsels glad,
An abbot on an ambling pad,
Sometimes a curly shepherd-lad,
Or long-haired page in crimson clad,
Goes by to towered Camelot;
And sometimes through the mirror blue
The knights come riding two and two:
She hath no loyal knight and true,
The Lady of Shalott.

But in her web she still delights
To weave the mirror's magic sights,
For often through the silent nights
A funeral, with plumes and lights
And music, went to Camelot:
Or when the moon was overhead,
Came two young lovers lately wed;
"I am half sick of shadows," said
The Lady of Shalott.

Part III
A bow-shot from her bower-eaves,
He rode between the barley-sheaves,
The sun came dazzling through the leaves, 
And flamed upon the brazen greaves
Of bold Sir Lancelot.
A red-cross knight for ever kneeled
To a lady in his shield,
That sparkled on the yellow field,
Beside remote Shalott.

The gemmy bridle glittered free,
Like to some branch of stars we see
Hung in the golden Galaxy.
The bridle bells rang merrily
As he rode down to Camelot:
And from his blazoned baldric slung
A mighty silver bugle hung,
And as he rode his armour rung,
Beside remote Shalott.

All in the blue unclouded weather
Thick-jewelled shone the saddle-leather,
The helmet and the helmet-feather
Burned like one burning flame together,
As he rode down to Camelot.
As often through the purple night,
Below the starry clusters bright,
Some bearded meteor, trailing light,
Moves over still Shalott.

His broad clear brow in sunlight glow'd; 
On burnished hooves his war-horse trode;
From underneath his helmet flowed
His coal-black curls as on he rode,
As he rode down to Camelot.
From the bank and from the river
He flashed into the crystal mirror,
"Tirra lira," by the river
Sang Sir Lancelot.

She left the web, she left the loom,
She made three paces through the room,
She saw the water-lily bloom,
She saw the helmet and the plume,
She looked down to Camelot.
Out flew the web and floated wide;
The mirror cracked from side to side;
"The curse is come upon me," cried
The Lady of Shalott.

Part IV
In the stormy east-wind straining,
The pale yellow woods were waning,
The broad stream in his banks complaining,
Heavily the low sky raining
Over towered Camelot;
Down she came and found a boat
Beneath a willow left afloat,
And round about the prow she wrote 125
The Lady of Shalott.

And down the river's dim expanse
Like some bold seer in a trance,
Seeing all his own mischance —
With a glassy countenance
Did she look to Camelot.
And at the closing of the day
She loosed the chain, and down she lay;
The broad stream bore her far away,
The Lady of Shalott.

Lying, robed in snowy white
That loosely flew to left and right —
The leaves upon her falling light —
Through the noises of the night
She floated down to Camelot:
And as the boat-head wound along
The willowy hills and fields among,
They heard her singing her last song,
The Lady of Shalott.

Heard a carol, mournful, holy,
Chanted loudly, chanted lowly,
Till her blood was frozen slowly,
And her eyes were darkened wholly,
Turned to towered Camelot.
For ere she reached upon the tide 
The first house by the water-side,
Singing in her song she died,
The Lady of Shalott.

Under tower and balcony,
By garden-wall and gallery,
A gleaming shape she floated by,
Dead-pale between the houses high,
Silent into Camelot.
Out upon the wharfs they came,
Knight and burgher, lord and dame,
And round the prow they read her name,
The Lady of Shalott.

Who is this? and what is here?
And in the lighted palace near
Died the sound of royal cheer;
And they crossed themselves for fear,
All the knights at Camelot:
But Lancelot mused a little space;
He said, "She has a lovely face;
God in his mercy lend her grace,
The Lady of Shalott."

Thơ tình John Clare


TÔI LÀ
(I Am)

Tôi là ai, cần gì phải quan tâm
Giờ bạn bè chẳng còn trong trí nhớ
Tôi gặm nhấm nỗi buồn đau thống khổ
Những nỗi đau này ghé đến thường xuyên
Bóng tối tình yêu vẫn còn hành hạ
Nhưng tôi sống đây – như ở trong sương. 

Vào hư vô của khinh miệt, tiếng ồn
Cuộc đời ta là giấc mơ ngắn ngủi
Nơi chẳng có niềm vui và ý nghĩa
Nhưng nơi đây từng có những ánh nhìn
Tôi đã yêu. Nhưng giờ không gọi nữa
Bởi giờ đây tôi thành kẻ lạ lùng. 

Tôi muốn về nơi chẳng có người nào
Không tiếng cười, chẳng nước mắt phụ nữ
Nơi chỉ có mình tôi cùng Thượng Đế
Để ngủ say trong giấc ngủ ngọt ngào
Và vô tư lự như thời thơ ấu
Dưới – cỏ xanh, trời xanh thắm – trên đầu. 

I am

I am: yet what I am none cares or knows
My friends forsake me like a memory lost,
I am the self-consumer of my woes—
They rise and vanish in oblivious host,
Like shadows in love's frenzied, stifled throes—
And yet I am, and live—like vapors tossed

Into the nothingness of scorn and noise,
Into the living sea of waking dreams,
Where there is neither sense of life or joys,
But the vast shipwreck of my life's esteems;
Even the dearest, that I love the best,
Are strange—nay, rather stranger than the rest.

I long for scenes, where man hath never trod,
A place where woman never smiled or wept—
There to abide with my Creator, God,
And sleep as I in childhood sweetly slept,
Untroubling, and untroubled where I lie,
The grass below—above the vaulted sky.



TÌNH ĐẦU
(First Love)

Chưa bao giờ tôi có được phút giây
Với một tình yêu ngọt ngào như thế 
Em như bông hoa đẹp xinh, tươi trẻ 
Ngay lập tức chinh phục trái tim tôi. 

Gương mặt tôi bỗng trở nên tê tái
Và đôi chân như ai đó xích vào
Trước ánh mắt em quá đỗi ngọt ngào
Cuộc đời tôi bỗng nhiên thành tro bụi. 

Dòng máu nóng chảy lên gương mặt tôi
Và đôi mắt bỗng trở nên tăm tối
Những bụi cây, những thân cây quanh đấy
Thành bóng đêm dày đặc giữa ban ngày. 

Tôi không nhìn ra sáng tỏ một điều
Nhưng lời nói bỗng trở nên sôi nổi
Và như những hợp âm làm thành chuỗi
Dòng máu dạt dào trong trái tim yêu

Chẳng lẽ hoa thường thích chọn mùa đông
Giường tình yêu vẫn thích nằm trong tuyết
Nàng dường như nghe tiếng nói lặng thầm
Một tình yêu mà chưa ai từng biết. 

Chưa bao giờ tôi gặp cảnh thế kia
Gương mặt ngọt ngào, ánh mắt kinh ngạc
Giờ tâm hồn tôi đã lìa khỏi xác
Và chắc là không quay lại bao giờ. 

First Love

I ne'er was struck before that hour
With love so sudden and so sweet.
Her face it bloomed like a sweet flower
And stole my heart away complete.

My face turned pale, a deadly pale.
My legs refused to walk away,
And when she looked what could I ail
My life and all seemed turned to clay.

And then my blood rushed to my face
And took my eyesight quite away.
The trees and bushes round the place
Seemed midnight at noonday.

I could not see a single thing,
Words from my eyes did start.
They spoke as chords do from the string,
And blood burnt round my heart.

Are flowers the winter's choice
Is love's bed always snow
She seemed to hear my silent voice
Not love appeals to know.

I never saw so sweet a face
As that I stood before.
My heart has left its dwelling place
And can return no more.


Thơ tình William Davies


THỜI GIAN RỖI

Sao mà đời lắm thứ phải quan tâm
Không còn thời gian để đứng và nhìn.

Không thời gian để đứng dưới lá cành
Như dê cừu – chúng chỉ đứng nhìn quanh.

Không thời gian khi ta đi qua rừng
Nhìn chú sóc giấu đồ ăn trong cỏ.

Không thời gian để ban ngày nhìn rõ
Dải ngân hà như là giữa trời đêm.

Không thời gian để nhìn xuống chân em
Bước trên đường như người đang khiêu vũ.

Không thời gian đợi nụ cười rạng rỡ
Âu yếm ngọt ngào nở trên môi em.

Đời thật khổ, quá nhiều thứ quan tâm
Không có thời gian để đứng mà nhìn. 


Leisure

WHAT is this life if, full of care,
We have no time to stand and stare?—

No time to stand beneath the boughs,
And stare as long as sheep and cows:

No time to see, when woods we pass,
Where squirrels hide their nuts in grass:

No time to see, in broad daylight,
Streams full of stars, like skies at night:

No time to turn at Beauty's glance,
And watch her feet, how they can dance:

No time to wait till her mouth can
Enrich that smile her eyes began?

A poor life this if, full of care,
We have no time to stand and stare.




NGƯỜI NGỦ

Hôm ấy tôi đi bộ xuống bờ sông
Trời ẩm ướt, tối đen và tĩnh lặng
Những chú gà hãy còn chưa gáy sáng
Tiếng chó sủa hãy còn chưa vang lên
Và khi đó chưa đến giờ thứ năm
Mà đồng hồ Westminster sẽ gióng. 

Hôm ấy tôi đi bộ xuống bờ sông
Trong không khí ẩm ướt và giá lạnh
Thấy cả trăm phụ nữ và đàn ông
Những kẻ rách rưới, không có việc làm
Họ ngủ ở đây, bên nhau túm tụm
Thấy cảnh ấy, tôi xót xa nghĩ rằng
Những kẻ này chỉ có đường chết sớm. 

Ngay lúc đấy, một chiếc xe sáng đèn
Đang từ từ ghé xuống bên bờ sông
Tôi nhìn vào bên trong xe và thấy
Mệt mỏi, bơ phờ – những người đàn ông 
Mặt mày cau có và đang tranh thủ
Ngủ một giấc ngắn ngủi trước khi làm. 

Mười chiếc xe tiếp đó ghé bờ sông
Như mười cỗ quan tài trong bóng đêm
Trong mỗi xe có hai mươi xác sống
Những xác sẽ hồi sinh làm việc nặng
Thấy cảnh ấy, tôi xót xa nghĩ rằng
Những kẻ này chỉ có đường chết sớm.


The Sleepers

As I walked down the waterside
This silent morning, wet and dark;
Before the cocks in farmyards crowed,
Before the dogs began to bark;
Before the hour of five was struck
By old Westminster's mighty clock:

As I walked down the waterside
This morning, in the cold damp air,
I saw a hundred women and men
Huddled in rags and sleeping there:
These people have no work, thought I,
And long before their time they die.

That moment, on the waterside,
A lighted car came at a bound;
I looked inside, and saw a score
Of pale and weary men that frowned;
Each man sat in a huddled heap,
Carried to work while fast asleep.

Ten cars rushed down the waterside
Like lighted coffins in the dark;
With twenty dead men in each car,
That must be brought alive by work:
These people work too hard, thought I,
And long before their time they die.




TÔI LÀ NHÀ THƠ DAVIES, WILLIAM 

Tôi là nhà thơ Davies, William
Không hề đỏ mặt, không hề luống cuống
Tôi là người thích sống để mà ăn
Tôi là người thích sống để mà uống. 

Đôi môi dày và mặt tôi sưng phồng
Da tôi thô và có màu đen thẫm
Nhưng thơ của tôi lại càng quái đản
Minh chứng rằng hồn tôi có màu đen. 

Nhờ ơn trời em đã không lấy anh
Một nhà thơ đầy nghĩ suy tăm tối
Nhưng mà linh hồn của anh tội lỗi
Cả trăm ngàn con quỉ bắt không xong.


I am the poet Davis, William

I am the poet Davis, William
I sin without a blush or blink:
I am a man that lives to eat,
I am a man that lives to drink.

My face is large, my lips are thick,
My skin is coarse and black almost;
But the ugliest feature is my verse,
Which proves my soul is black and lost.

Thank heaven thou didst not marry me,
A poet full of blackest evil;
For how to manage my damned soul
Will puzzle many a flaming devil.


TRĂNG

Vẻ đẹp của em ám ảnh cõi lòng
Ôi, trăng thanh, trăng gần và sáng sủa
Vẻ đẹp này biến tôi thành trẻ nhỏ
Đưa bàn tay bé bỏng hướng về trăng:
Trăng ơi trăng, trăng sáng tỏ trong đêm
Hãy để ta đưa trăng vào giường ngủ.

Như bày tỏ với trăng lòng ngưỡng mộ
Tiếng chim họa mi vẫn hót trong đêm
Nhưng hãy để sự lặng im nói hộ
Cho cõi lòng ta yêu dấu, vì rằng
Tiếng họa mi không thể sánh cùng trăng.

The Moon

Thy beauty haunts me heart and soul,
Oh, thou fair Moon, so close and bright;
Thy beauty makes me like the child
That cries aloud to own thy light:
The little child that lifts each arm
To press thee to her bosom warm.

Though there are birds that sing this night
With thy white beams across their throats,
Let my deep silence speak for me
More than for them their sweetest notes:
Who worships thee till music fails,
Is greater than thy nightingales.