Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

Thơ tình Andrew Marvell



ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU

Khởi thủy tình tôi thật diệu kỳ
Mục tiêu cao cả, lạ lùng ghê.
Sao đã phôi thai niềm tuyệt vọng
Và điều không thể vội sinh ra. 

Tuyệt vọng trong hào phóng của mình
Giang cao đôi cánh vút bay lên
Để niềm hy vọng chùng đôi cánh
Vẫy vùng càng lắm chỉ hoài công.

Nhưng dù sao thì ta vẫn tin
Rằng ta đạt đến mục đích chung
Nhưng rồi số phận chìa dao sắt
Ngăn cản đường ta đến mỗi lần.

Số phận dè chừng vốn đã quen
Say mê cuồng đắm hai tâm hồn
Cùng nhau hòa hợp – và phút chốc
Than ôi, bạo chúa bị truất quyền.

Thế nên điều lệ vững vàng kia
Muôn thuở muôn đời bị phân chia
Để những con tim mù bóng tối
Cách ngăn hai kẻ muốn ôm ghì.

Lẽ nào đổ xuống cả trời xanh
Đất trong cơn rung chuyển cuối cùng.
Tất cả rồi đây hàn gắn lại
Như hai đường nét vẽ trên hình.

Tình yêu luôn có những con đường
Thường xuyên gặp gỡ những đường cong
Còn bao đường thẳng thì mãi mãi
Muôn đời muôn kiếp đứng song song.

Vì thế mà khi nảy sinh tình
Số kiếp luôn tìm cách can ngăn
Luôn có những vì sao đối kháng
Và mong hòa hợp những tâm hồn.

The Definition Of Love

My love is of a birth as rare
As 'tis for object strange and high:
It was begotten by Despair
Upon Impossibility.

Magnanimous Despair alone
Could show me so divine a thing,
Where feeble Hope could ne'er have flown
But vainly flapped its tinsel wing.

And yet I quickly might arrive
Where my extended soul is fixed
But Fate does iron wedges drive,
And always crowds itself betwixt.

For Fate with jealous eye does see
Two perfect loves, nor lets them close:
Their union would her ruin be,
And her tyrranic power depose.

And therefore her decrees of steel
Us as the distant Poles have placed
(Though Love's whole world on us doth wheel)
Not by themselves to be embraced,

Unless the giddy heaven fall,
And earth some new convulsion tear;
And, us to join, the world should all
Be cramped into a planisphere.

As lines so loves oblique may well
Themselves in every angle greet:
But ours so truly parallel,
Though infinite, can never meet.

Therefore the love which us doth bind,
But Fate so enviously debars,
Is the conjunction of the mind,
And opposition of the stars.


TÌNH YÊU TRẺ

Em hãy ghé lại gần
Cho anh hôn em nhé
Tuổi tác của chúng mình
Không ghen tuông gì cả.

Tuổi già anh đã ghé
Bên tuổi trẻ vui đùa
Nũng nịu với em, như
Cô giáo và con trẻ.

Xinh đẹp tuổi mười lăm
Trong tim dòng máu nóng
Với lầm lỗi còn xanh
Nhưng với tình đã chín.

Đời thường lấy thịt bò
Đem dâng thần tế lễ
Chắc thần tình yêu sẽ
Vui vẻ nhận thịt bê.

Tuổi xuân cũng héo tàn
Cũng đi vào lặng lẽ
Biết yêu nhau thì sẽ
Không sợ gì tháng năm.

Ta lo cho số phận
Có thể dữ hay lành
Phận lành ta tiếp nhận
Phận dữ ta lãng quên.

Để tránh điều có hại
Mưu kế hoặc điên cuồng
Trong chiếc nôi nhỏ ấy
Vương miện sẽ đội lên.

Giờ anh trao vương miện
Cho tình yêu của mình
Và sẽ không màng đến
Những đối thủ ghen tuông.

Young Love

Come little infant, love me now,
While thine unsuspected years
Clear thine agèd father's brow
From cold jealousy and fears.

Pretty surely 'twere to see
By young Love old Time beguiled,
While our sportings are as free
As the nurse's with the child.

Common beauties stay fifteen;
Such as yours should swifter move,
Whose fair blossoms are too green
Yet for lust, but not for love.

Love as much the snowy lamb,
Or the wanton kid, does prize,
As the lusty bull or ram,
For his morning sacrifice.

Now then love me: Time may take
Thee before thy time away;
Of this need we'll virtue make,
And learn love before we may.

So we win of doubtful Fate,
And, if good she to us meant,
We that good shall antedate,
Or, if ill, that ill prevent.

Thus as kingdoms, frustrating
Other titles to their crown,
In the cradle crown their king,
So all foreign claims to drown;

So to make all rivals vain,
Now I crown thee with my love
Crown me with thy love again,
And we both shall monarchs prove.

Thơ tình William Wordsworth


HOA THỦY TIÊN


Như đám mây, tôi thơ thẩn một mình
Trôi bồng bềnh trên đồi, trên thung lũng
Và bỗng nhiên nhìn thấy một đám đông
Là những bông hoa thủy tiên vàng óng
Bên hồ nước, dưới tán cây soi bóng
Trong gió rung rinh những cánh hoa vàng. 

Không ngừng nghỉ như ngôi sao tỏa sáng
Và lung linh, lấp lánh giữa Ngân Hà
Hoa kéo dài thành dải tới mờ xa
Và ngút mắt trải dài theo bờ vịnh
Ngàn vạn hoa thấy tôi như chào đón 
Nghiêng mái đầu trong vũ điệu của hoa.

Những con sóng cũng mừng vui hớn hở
Nhưng với hoa đâu có thể sánh bằng
Và khi trong những niềm vui như thế 
Tâm hồn nhà thơ như muốn lặng ngừng
Tôi nhìn tất cả và tôi suy nghĩ
Cõi trần gian thật kỳ diệu khác thường.

Rất thường xuyên những khi nghỉ trên giường
Khi tâm trạng trầm ngâm, khi trống vắng
Những bông hoa trong lòng tôi hồi tưởng
Và nhảy múa cùng hạnh phúc cô đơn
Thì con tim lại rộn ràng vui sướng
Hòa nhịp chân cùng vũ điệu thủy tiên.


The daffodils

I wandered lonely as a cloud
That floats on high o'er vales and hills,
When all at once I saw a crowd,
A host, of golden daffodils;
Beside the lake, beneath the trees,
Fluttering and dancing in the breeze.

Continuous as the stars that shine
And twinkle on the Milky Way,
They stretched in never-ending line
Along the margin of a bay:
Ten thousand saw I at a glance,
Tossing their heads in sprightly dance.

The waves beside them danced, but they
Out-did the sparkling waves in glee:
A Poet could not but be gay,
In such a jocund company:
I gazed--and gazed--but little thought
What wealth the show to me had brought:

For oft, when on my couch I lie
In vacant or in pensive mood,
They flash upon that inward eye
Which is the bliss of solitude;
And then my heart with pleasure fills,
And dances with the daffodils.



VIẾT TRÊN CẦU WESTMINTER 3 THÁNG 9 NĂM 1802

Thế gian này chẳng có gì đẹp hơn
Người qua đường biết làm sao hờ hững
Trước cảnh tượng uy nghi và hoành tráng
Thành phố tôi khoác bộ cánh cho mình. 

Vẻ đẹp buổi sáng tinh khôi, lặng lẽ
Tàu, tháp, đền thờ, nhà hát, mái vòm
Như chìm đắm giữa đồng ruộng, trời xanh
Tất cả lấp lánh trong bầu không khí. 

Không nơi nào ánh bình minh đẹp thế
Thung lũng, núi đồi trong ánh sáng đầu tiên
Vẻ lặng sâu tôi chưa từng cảm thấy! 

Con sông thì thầm, ơi con sông chảy
Những ngôi nhà như đang ngủ mơ màng
Và cây cầu đồ sộ vẫn nằm yên.


Composed Upon Westminster Bridge, September 3, 1802

Earth has not anything to show more fair;
Dull would he be of soul who could pass by
A sight so touching in majesty:
This city now doth’, like a garment wear

The beauty of the morning silent, bare,
Ships, towers, domes, theatres, and temples lie
Open unto the fields, and to the sky;
All bright and glittering in the smokless air.

Never did sun more beautifully steep
In his first splendor, valley, rock, or hill;
Never saw I, never felt, a calm so deep!

The river glideth at his own sweet will:
Dear God! The very houses seem asleep;
And all that mighty heart is lying still!



EM ĐẸP LẮM NHƯNG MÀ EM HÃY NHỚ


Em đẹp lắm, nhưng mà em hãy nhớ
Hãy lắng nghe sự thừa nhận của anh:
Chuyện anh đã từng yêu em một thuở
Đấy là anh yêu tưởng tượng của mình.

Trời bạn tặng cho ta óc tưởng tượng
Em hãy tin rằng như vậy, em yêu
Nếu lý trí không sẵn sàng tiếp nhận
Quả thực anh không biết phải làm sao.

Theo những gì mà thiên nhiên ban tặng
Để gợi lòng tôn kính ở nơi anh
Sống theo luật mà bao nhiêu thứ vẫn
Như đất, trời, như không khí, đại dương. 


Yes! Thou art fair, yet be not moved

Yes! Thou art fair, yet be not moved
To scorn the declaration,
That sometimes I in thee have loved
My fancy’s own creation.

Imagination needs must stir;
Dear Maid, this truth believe,
Minds that have nothing to confer
Find little to perceive.

Be pleased that nature made thee fit
To feed my heart’s devotion,
By laws to which all Forms submit
In sky, air, earth, and ocean.




LUCY 

II
Nàng ở nơi hẻo lánh
Gần cạnh bên bờ sông
Chẳng có ai biết đến
Và ít kẻ yêu nàng. 

Hoa tím khuất bên đá
Chẳng có ánh mắt nhìn
Sao giữa trời đơn lẻ
Thì sao sáng lung linh. 

Nàng đã sống cô đơn
Và con đường đi hết
Giờ về nơi suối vàng
Cho tôi điều khác biệt. 

III
Giữa những người xa lạ
Giờ ở chốn xa xôi
Nước Anh ơi, tôi sẽ 
Giữ tình yêu của Người. 

Qua giấc mơ sầu muộn
Tôi sẽ không giã từ
Người, là nơi bờ bến
Càng yêu Người hơn xưa. 

Nơi đó, dưới ngọn đồi
Mà ngày xưa cô gái
Bên bếp lửa của Người
Đã từng ngồi dệt vải. 

Ngày vỗ về, đêm giấu
Khu vườn của Lucy
Và đâu đây vẫn thấy
Đôi mắt của Lucy. 

V
Tôi trong cơn mơ màng
Không điều chi lo lắng.
Nàng giờ không cảm nhận
Luân chuyển của tháng năm. 

Nàng yên nghỉ muôn đời
Không nghe và không thấy
Đá phiến và cây cối 
Trong vòng quay đất trời. 


Lucy

II
She dwelt among the untrodden ways
Beside the springs of Dove’’
A maid whom there were none to praise
And very few to love:

A violet by a mossy stone
Half hidden from the eye!
Fair as a star, whom only one
Is shining in the sky.

She lived unknown, and few could know
When Lucy ceased to be;
But she is in her grave, and, oh,
The difference to me!

III
I travelled among unknown men,
In lands beyond the sea;
Nor, England! did I know till then
What love I bore to thee.

Tis past, that melancholy dream!
Nor will I quit thy shore
A second time; for still I seem
To love thee more and more.

Among thy mountains did I feel
The joy of my desire;
And she I cherished turned her wheel
Beside an English fire.

Thy mornings showed, thy nights concealed
The bowers where Lucy played;
And thine too is the last green field
That Lucy's eyes surveyed.

V
A slumber did my spirit seal;
I had no human fears:
She seemed a thing that could not feel
The touch of earthly years.

No motion has she now, no force;
She neither hears nor sees;
Rolled round in earth's diurnal course,
With rocks, and stones, and trees.

Thơ tình Seamus Heaney



GIÃ BIỆT

Cô em mặc váy kẻ ô
Và chiếc áo choàng đơn giản
Từ ngày cô bỏ nhà đi
Ngôi nhà tiêu điều, hoang vắng.

Khi em có mặt
Thời gian thả neo
Trên nụ cười, nhưng em đi mất
Nhổ neo, choáng váng tình yêu.

Tháng ngày vội vàng, gấp rút
Đi qua hết gần cuốn lịch
Dồn vào lặng lẽ âm thanh
Của giọng nói em dịu dàng.

Thiếu em, tan tác bến bờ anh
Em đi rồi, anh một mình trên biển
Đến một ngày em chưa bỏ lệnh
Thì anh vẫn còn nổi loạn, cuồng điên.

Valediction

Lady with the frilled blouse
And simple tartan skirt,
Since you have left the house
Its emptiness has hurt

All thought. In your presence
Time rode easy, anchored
On a smile; but absence
Rocked love's balance, unmoored

The days. They buck and bound
Across the calendar
Pitched from the quiet sound
Of your flower-tender

Voice. Need breaks on my strand;
You've gone, I am at sea.
Until you resume command
Self is in mutiny.


YÊU DẤU ARAN(1)

những con sóng muôn đời, sạch sẽ, trắng trong, kính vỡ
đi vào vách đá, làm cho mắt lóa, sững sờ
những con sóng đến từ hai châu Mỹ.

chinh phục Aran. Hay là Aran vội vã
giang rộng vòng tay của đá bên con nước thủy triều
có phải chết con nước ròng và nhẹ nhàng tan vỡ?

biển vạch ranh giới với đất liền, hay đất với biển?
biển xâm phạm đất liền để hòa quyện vào nhau
theo cách của mình, ý nghĩa từng con sóng.
__________

(1)Aran – một hòn đảo ở bờ tây của Ai-len

Lovers on Aran

The timeless waves, bright, sifting, broken glass,
Came dazzling around, into the rocks,
Came glinting, sifting from the Americas

To posess Aran. Or did Aran rush
to throw wide arms of rock around a tide
That yielded with an ebb, with a soft crash?

Did sea define the land or land the sea?
Each drew new meaning from the waves' collision.
Sea broke on land to full identity.



THÁNH FRANCIS VÀ CHIM

Khi Francis rao giảng tình yêu cho chim
Chúng lắng nghe, đập, vỗ cánh rồi bay
Lên trời xanh, giống như một bầy lời.

Lời mua vui từ môi thánh của Ngài.
Sau quay trở lại trên đầu bay lượn
Nhảy múa trên chiếc mũ của anh trai.

Nhảy trên cánh, những con chim đùa vui
Và hát lên, như hình ảnh đang bay.
Bài thơ hay nhất mà Francis thể hiện
Lý lẽ chính xác và giọng Ngài mềm mỏng. 

Saint Francis and the birds

When Francis preached love to the birds,
They listened, fluttered, throttled up
Into the blue like a flock of words

Released for fun from his holy lips.
Then wheeled back, whirred about his head,
Pirouetted on brother's capes,

Danced on the wing, for sheer joy played
And sang, like images took flight.
Which was the best poem Francis made,
His argument true, his tone light.


GIÀN GIÁO

Những người thợ khi bắt đầu xây nhà
Kiểm tra kỹ xem giàn giáo chắc chưa

Để không bị rơi từ trên cao xuống
Kiểm tra thang, bắt vít ốc chắc chắn

Xây xong rồi mà đổ xuống ai cần
Bởi đá cứng, chắc chắn những bức tường.

Thì chuyện của anh và em cũng vậy
Em ngỡ rằng cây cầu xưa đã gãy

Em đừng sợ. Dù cho giàn giáo rơi
Nhưng ta đã xây tường chắc chắn rồi.

Scaffolding

Masons, when they start upon a building,
Are careful to test out the scaffolding;

Make sure that planks won't slip at busy points,
Secure all ladders, tighten bolted joints.

And yet all this comes down when the job's done,
Showing off walls of sure and solid stone.

So if, my dear, there sometimes seem to be
Old bridges breaking between you and me,

Never fear. We may let the scaffolds fall,
Confident that we have built our wall.



NGƯỜI ĐÀN ÔNG TOLLUND*
(The Tollund man)

Một hôm tôi đến Aarhus
Để xem xác ướp của ông
Quanh đầu có những vỏ đậu
Mũ da và mí mắt sưng. 

Ở bên quốc gia láng giềng
Người ta đã đào thấy ông
Những hạt giống mùa đông cuối
Tích tụ trong dạ dày ông.

Trần truồng – chỉ còn dây lưng
Mũ và dây vòng quanh cổ.
Tôi sẽ đứng lâu ở đó.
Chàng rể dành cho nữ thần

Người ta tìm thấy trong đầm
Than bùn giữ thân xác ông
Như là một thứ nước ép
Giữ gìn thân thể thiêng liêng. 

Giữ gìn thân xác thánh thần
Nhờ công lao của than bùn.
Bây giờ khuôn mặt còn vết
Được yên nghỉ trong bảo tàng.
__________
*Người đàn ông Tollund là xác chết được ướp xác tự nhiên của một người đàn ông sống vào thế kỷ thứ 4 tr. CN, trong thời kỳ đồ sắt tiền La Mã. Xác ướp này được tìm thấy ở Đan Mạch trong một đầm lầy than bùn. Xác ướp này được bảo tồn tốt đến mức, khi được phát hiện người ta đã lầm tưởng đây là nạn nhân của một vụ giết người gần đây. Xác ướp này hiện được bảo quản tại bảo tàng của Đại học Aarhus, Đan Mạch. 

The Tollund man

I
Some day I will go to Aarhus
To see his peat-brown head,
The mild pods of his eye-lids,
His pointed skin cap.

In the flat country near by
Where they dug him out,
His last gruel of winter seeds
Caked in his stomach,

Naked except for
The cap, noose and girdle,
I will stand a long time.
Bridegroom to the goddess,

She tightened her torc on him
And opened her fen,
Those dark juices working
Him to a saint's kept body,

Trove of the turfcutters'
Honeycombed workings.
Now his stained face
Reposes at Aarhus.



ANTAEUS(1)

Tôi thức dậy buổi bình minh
Như bông hoa hồng – tươi và sáng
Thì mối đe doạ của ngoại bang
Trong cuộc chiến này tôi sẽ thắng.

Những sức mạnh của đất đai
Những dòng nước ngầm sôi nổi
Tôi sẽ mang theo trong người
Khi tôi lăn vào trong đất bụi.

Nơi phát sinh của tôi – là bóng tối
Là đá ngầm, là gốc rễ của cây
Là cơn lốc ngầm và sự vần xoay
Là hang động, đất đai và nước nổi.

Cứ xuất hiện thêm một anh hùng mới
Hecrales trên đường đến khu vườn.
Nhưng để giết được tôi trong cuộc chiến tranh
Thì đánh nhau là điều không tránh khỏi.

Và giờ đây tôi nằm trong đất bụi
Nhưng sức mạnh mới tràn đầy
Dù nó biết rằng cần xua tôi đi khỏi
Mặt đất quê hương rất mạnh mẽ này.
____________
(1)Antaeus (Antaios) – theo thần thoại Hy Lạp là một trong số thần khổng lồ, là con trai của Poseidon và nữ thần Gaea Libia. Là thần không thể đánh bại một khi còn chạm vào mẹ mình là thần đất Gaea thì luôn lấy lại được sức mạnh. Hecrales trên đường đến khu vườn để lấy cắp quả táo của các nàng Hesperides đã giết được Antaeus bằng cách nhấc bổng thần lên cao rồi bóp chết (kì công thứ 11).

Antaeus

When I lie on the ground 
I rise flushed as a rose in the morning.
In fights I arrange a fall on the ring 
To rub myself with sand.

That is operative
As an elixir. I cannot be weaned
Off the earth's long contour, her river-veins.
Down here in my cave

Girded with root and rock
I am cradled in the dark that wombed me
And nurtured in every artery
Like a small hillock.

Let each new hero come
Seeking the golden apples and Atlas:
He must wrestle with me before he pass
Into that realm of fame

AMong sky-born and royal.
He may well throw me and renew my birth
But let him not plan, lifting me off the earth,
My elevation, my fall.


THEN CỬA BUÔNG

Then cửa buông – một tia nắng mỏng
Cắt vào sân chẳng nhìn ra.
Hành lang màu vàng chúng đi qua
Rồi lặng lẽ mất hút vào đêm vắng.

Ngày e ấp chiếu sáng lên
Khung cửa, bậc thềm và đá
Khi quay trở về, đêm lặng lẽ
Chùi lên sân đã thấy rõ rành.