Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

Thơ tình Dante Gabriel Rossetti


TÌNH YÊU LÊN NGÔI

Những sức mạnh mà con tim dễ thương
Bờ môi sự thật, ánh mắt hy vọng
Và vinh quang tro tàn thêm đôi cánh
Quá khứ sáng bừng bóng tối Oblivion.
Tuổi trẻ đẹp xinh với mái tóc vàng
Rất vô tình từ bờ vai đổ xuống
Trong vòng tay tuổi trẻ đầy âu yếm
Đời kết hoa cho cái chết đăng quang.

Tình lên ngôi không với những thứ trên
Mà say mê gặp gỡ và ly biệt
Tình lên ngôi ngoài mọi điều ao ước
Dù yêu thương và hy vọng đã lường
Khát khao sự thật, đạt đến vinh quang
Tuổi trẻ hân hoan, đời là mật ngọt. 

Sonnet I. Love Enthroned

I marked all kindred Powers the heart finds fair:—
Truth, with awed lips; and Hope, with eyes upcast;
And Fame, whose loud wings fan the ashen Past
To signal-fires, Oblivion's flight to scare;
And Youth, with still some single golden hair
Unto his shoulder clinging, since the last
Embrace wherein two sweet arms held him fast;
And Life, still wreathing flowers for Death to wear.

Love's throne was not with these; but far above
All passionate wind of welcome and farewell
He sat in breathless bowers they dream not of;
Though Truth foreknow Love's heart, and Hope foretell,
And Fame be for Love's sake desirable,
And Youth be dear, and Life be sweet to Love.


ÁNH SÁNG ĐỘT NGỘT

Xưa một thời tôi đã ở nơi đây
Nhưng khi nào, ra sao – không còn nhớ
Chỉ còn nhớ rằng cỏ hoa ngoài cửa
Vẫn tỏa mùi hương thơm đến ngọt ngào
Và gió thở dài trên những bờ bao.

Xưa em là người yêu dấu của anh
Bao năm rồi anh không còn nhớ nữa
Nhưng chỉ từ khi chim én bay lên
Và đột ngột, em quay lại ngước nhìn
Làm cho anh lại nhớ về quá khứ.

Mà liệu có không quá khứ đã từng?
Khi thời gian vẫn đi về phía trước
Ngày sẽ đến ta vẫn sống với tình
Bất chấp cuộc đời, bỏ qua cái chết
Để vẫn sống vui với những ngày đêm?

Sudden Light

I have been here before,
But when or how I cannot tell:
I know the grass beyond the door,
The sweet keen smell,
The sighing sound, the lights around the shore.

You have been mine before,—
How long ago I may not know:
But just when at that swallow's soar
Your neck turn'd so,
Some veil did fall,—I knew it all of yore.

Has this been thus before?
And shall not thus time's eddying flight
Still with our lives our love restore
In death's despite,
And day and night yield one delight once more?


KHÔNG CÓ EM

Gương không có em? Chỉ còn màu xám
Khi phía sau, trăng tỏa sáng trên hồ.
Váy không có em? Không gian trống rỗng
Xuyên đám mây đen trăng mới đi qua.
Con đường không em? Ngày chỉ vật vờ
Bóng tối trùm lên. Còn trên gối ấm
Nước mắt rơi, tình yêu trong quên lãng
Vẻ lạnh lùng trong ngày tháng của ta.

Con tim thiếu em? Com tim tội nghiệp
Không còn lời, môi chỉ biết lặng im
Như kẻ hành hương rảo bước trên đường
Rồi trèo lên đỉnh núi cao chót vót
Nơi cây cao và mây đen dày đặc
Bao phủ khắp cho ai khỏi đi tìm.

Without Her

What of her glass without her? The blank grey
There where the pool is blind of the moon's face.
Her dress without her? The tossed empty space
Of cloud-rack whence the moon has passed away.
Her paths without her? Day's appointed sway
Usurped by desolate night. Her pillowed place
Without her? Tears, ah me! for love's good grace,
And cold forgetfulness of night or day.

What of the heart without her? Nay, poor heart
Of thee what word remains ere speech be still?
A wayfarer by barren ways and chill,
Steep ways and weary, without her thou art,
Where the long cloud, the long wood's counterpart,
Sheds doubled darkness up the laboring hill.


THU CA

Em không nghe trong mùa thu lá rụng
Một nỗi đau thức dậy giữa tim này
Những tiếng buồn thương đã dệt từ lâu
Và ngỡ rằng tuyệt vời như giấc mộng
Giữa mùa thu, khi những chiếc lá rơi?

Suy tư làm chi chỉ để rối bời
Những ý nghĩ trong đầu như vô vọng
Giữa mùa thu, khi những chiếc lá rơi
Em không nghe? Rằng đời ta phí uổng
Ngỡ niềm vui – hóa ra chỉ niềm đau?

Em không nghe trong lá rụng mùa thu 
Và không biết rằng trong mùa thu hoạch
Hồn hoang vu sao em chẳng cất lời
Và cái chết chỉ là điều hài hước
Giữa mùa thu, khi những chiếc lá rơi?

Autumn Song

Know'st thou not at the fall of the leaf
How the heart feels a languid grief
Laid on it for a covering,
And how sleep seems a goodly thing
In Autumn at the fall of the leaf?

And how the swift beat of the brain
Falters because it is in vain,
In Autumn at the fall of the leaf
Knowest thou not? and how the chief
Of joys seems—not to suffer pain?

Know'st thou not at the fall of the leaf
How the soul feels like a dried sheaf
Bound up at length for harvesting,
And how death seems a comely thing
In Autumn at the fall of the leaf?

Thơ tình Robert Herrick



Một số bài thơ trích từ Noble Numbes

N.848.Upon a Maid

Gone she is a long, long way,
But she has decreed a day
Back to come, and make no stay:
So we keep, till her return,
Here, her ashes, or her urn.

848. Thơ về Cô gái

Em cất bước đường xa
Ra lệnh ngày đợi chờ
Ngóng trông ngày trở lại
Để cõi lòng tê tái
Em thành tro, lọ tro. 



N.1055.Nor Buying or Selling.

Now, if you love me, tell me,
For as I will not sell ye,
So not one cross to buy thee
I'll give, if thou deny me.
1055. Không mua, không bán

Nếu yêu anh, hãy nói
Tình không bán không mua
Em không đáng một xu
Nếu anh – em từ chối. 



N.991. To Bianca.

Ah, Bianca! now I see
It is noon and past with me:
In a while it will strike one;
Then, Bianca, I am gone.

Some effusions let me have
Offer'd on my holy grave;
Then, Bianca, let me rest
With my face towards the East.

991. Gửi Bianca

Bianca, anh biết
Ngày ấy đã cận kề
Mai mốt đây thần chết
Gõ cửa là anh đi.

Giọt nước mắt nóng bỏng
Hãy rót lên mộ anh
Em ơi, anh rất muốn
Quay mặt về hướng Đông.



N.142. THE JUDGMENT-DAY

God hides from man the reck'ning day, that he
May fear it ever for uncertainty;
That being ignorant of that one, he may
Expect the coming of it every day.

142. Ngày Phán xử

Chúa không cho con người biết ngày phán xử
Để con người sống trong sợ hãi mỗi ngày
Để cái ngày này luôn luôn là nỗi sợ
Mà anh ta có thể gặp nó mỗi ngày.



N.181. TAPERS

Those tapers which we set upon the grave
In fun'ral pomp, but this importance have:
That souls departed are not put out quite;
But as they walked here in their vestures white,
So live in heaven in everlasting light.

181. Những ngọn nến

Ta thắp lên những ngọn nến trong đám tang
Tục lệ đơn sơ nhưng vô cùng quan trọng
Là để làm cho tĩnh lặng những linh hồn
Bởi họ đi trong những áo quần màu trắng
Và ở nơi kia sống trong ánh sáng vĩnh hằng.



N.159. Christ’s Sadness

Christ was not sad, i' th' garden, for His own 
Passion, but for His sheep's dispersion.

N-159. Nỗi buồn Chúa Giê-su


Buồn là phận của ta: hãy vác cây thánh giá
Hoặc là sau khi chết sẽ chịu nhiều đau khổ.


N.168. Jehovah

Jehovah, as Boetius saith, 
No number of the plural hath. 

N.168. Giê-hô-va


Boetius nói về Thiên Chúa như vầy:
Không có số nhiều trong bản chất của Ngài.


-------------------------

Boetius (Boethius, 480 – 525) – nhà triết học, nhà thần học La Mã.



N.169. Confusion of Face

God then confounds man's face when He not bears 
The vows of those who are petitioners. 

N.169. Điều khó xử


Đức Chúa Trời làm con chiên khó xử
Khi Ngài không nghe lời nguyện cầu của họ.



N-170. Another

The shame of man's face is no more 
Than prayers repell'd, says Cassiodore. 

N-170. Điều khó xử khác


Chúa từ chối lời cầu nguyện – là điều nhục nhã
Và xấu hổ cho con chiên – Cassiodore nói thế.
---------------------------


Cassiodore (Latin: Cassiodorus, 490 – 575) – nhà sư, học giả, nhà văn La Mã.


N.172. Good and Bad

The bad among the good are here mix'd ever; 
The good without the bad are here plac'd never.

N.172. Thiện và Ác


Thiện và Ác đã trộn lẫn từ xưa
Thiện thiếu Ác không tồn tại bao giờ.


N-200. Beginnings and Endings

Paul, he began ill, but he ended well; 
Judas began well, but he foully fell: 
In godliness not the beginnings so 
Much as the ends are to be look'd unto.

N-200. Khởi đầu và kết thúc


Phao-lô khởi đầu bằng cái xấu nhưng kết thúc bằng cái tốt
Giu-đa khởi đầu bằng cái tốt nhưng kết cục gian manh
Thế nên chúng ta cần đánh giá trong sự tôn sùng
Không ở sự khởi đầu mà chính là kết cục.


N.234. The Judgment-Day

In doing justice God shall then be known, 
Who showing mercy here, few prized, or none.

N.234. Ngày phán xét


Chẳng ai được thưởng trong ngày phán xét cuối cùng
Dù Đức Chúa Trời xưa nay vẫn nhân hậu, bao dung.



NHỮNG NỤ HỒNG HÃY NHANH TAY GÓP NHẶT

Những nụ hồng hãy nhanh tay góp nhặt (tiếng Anh: Gather Ye Rosebuds While Ye May) – là một bức tranh do họa sĩ Anh John William Waterhouse sáng tác năm 1909. Đây là phiên bản nổi tiếng hơn cả. Bức tranh cùng tên sáng tác năm 1908 của cùng họa sĩ ít nổi tiếng hơn.

Bức tranh vẽ những cô gái xinh đẹp đang hái hoa trên đồng. Tên gọi của bức tranh lấy từ một bài thơ của nhà thơ Robert Herrick. Nhà thơ ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân và khuyên các cô gái hãy quên thói khiêm nhường hoặc xấu hổ để mau mau đi lấy chồng, vì rằng thời tuổi trẻ qua mau, tất cả vội đi về “buổi chiều bóng xế”. Bài thơ như sau:

Những nụ hồng hãy nhanh tay góp nhặt
Mọi thứ đều tàn lụi với thời gian
Những bông hồng ngày hôm nay khoe sắc
Ngày mai này rồi hoa sẽ héo hon.

Ngọn đèn trời lên đến đỉnh vinh quang
Lên càng cao mặt trời càng sáng tỏ
Và mặt trời với bước chạy càng nhanh
Thì càng chóng về buổi chiều bóng xế.

Đẹp tuyệt với những tháng năm tuổi trẻ
Tuổi thanh xuân trong huyết quản tưng bừng
Nhưng thời gian sẽ đến và thay thế
Những ưu phiền thế chỗ những thành công.

Một khi còn có thể hãy kết hôn
Hãy quên đi thói khiêm nhường, xấu hổ
Và nhớ rằng ngày xuân rất chóng tàn
Em đợi chờ, có thể là muôn thuở.



Gather ye rosebuds while ye may,
Old Time is still a-flying:
And this same flower that smiles to-day
To-morrow will be dying.

The glorious lamp of heaven, the sun,
The higher he's a-getting,
The sooner will his race be run,
And nearer he's to setting.

That age is best which is the first,
When youth and blood are warmer;
But being spent, the worse, and worst
Times still succeed the former.

Then be not coy, but use your time,
And while ye may, go marry:
For having lost but once your prime,
You may for ever tarry.

Gather Ye Rosebuds While Ye May dịch từng chữ sẽ là: “hãy hái những nụ hồng một khi còn có thể”. Chủ đề của bài thơ gần với triết lý “Carpe diem” của Horace, triết lý hưởng lạc trong thơ Rubáiyat của Omar Khayyam hoặc những lời khuyên người đẹp trong thơ của Pierre de Ronsard... Tất cả những tác giả, tác phẩm này đều đã có các bản dịch tiếng Việt.

Tại cuộc bán đấu giá ngày 17 tháng 4 năm 2007 ở Sotheby’s bức tranh này (phiên bản 1909) được trả giá 2,5 triệu đô la.

Thơ tình Alfred Douglas



BÀI CA


Ăn trộm từ những đồng cỏ và tất cả đồi xanh
Cướp hết hoa trong vườn để cho tôi đem kết
Một vương miện bằng những bông thủy tiên tuyệt đẹp
Bởi tình yêu tôi đẹp xinh và nhân hậu, trắng trong.

Ngày hôm nay hương của hoa thơm ngát cả không trung
Cùng tiếng ngân rung dịu dàng của những con chim hét
Chúa Trời cúi xuống để mạ vàng những trái tim hoa cúc
Bởi tình yêu tôi đẹp xinh và nhân hậu, trắng trong.

Ngày hôm nay ánh mặt trời hôn lên những cánh hoa hồng
Và người bạn của mùa xuân – chàng Narcissus
Buồn bã nở nụ cười khi nhìn vào gương nước
Bởi tình yêu tôi đẹp xinh và nhân hậu, trắng trong.


A Song

Steal from the meadows, rob that all green hills,
Ravish my orchard's blossoms, let me bind
A crown of orchard flowers and daffodils,
Because my love is fair and white and kind.

To-day the thrush has trilled her daintiest phrases,
Flowers with their incense have made drunk the air,
God has bent down to gild the hearts of daisies,
Because my love is kind and white and fair.

To-day the sun has kissed the rose-tree's daughter,
And sad Narcissus, Spring's pale acolyte,
Hangs down his head and smiles into the water,
Because my love is kind and fair and white.




GỬI OLIVE


Anh đã từng hoang phí niềm hạnh phúc
Và đã vô tâm trước mối nghịch thù
Anh sung sướng rơi vào vòng tù ngục
Của những dại khờ, của những đam mê
Anh bị cám dỗ nhưng chưa bao giờ
Quì gối trước thói giả nhân giả nghĩa
Chưa khoác lên mình những cơn thịnh nộ
Giống như áo quần, như nỗi đam mê.

Khi anh chết, em ơi, em hãy viết:
“Tình của anh giống như một ngọn đèn
Đã chiếu ánh sáng khắp cả gian phòng
Của cuộc đời anh, mọi khe, mọi góc
Và rồi trong những tia sáng màu vàng
Tất cả tắm mình trong màu hổ phách”.


To Olive

I have been profligate of happiness
And reckless of the world's hostility,
The blessèd part has not been given to me
Gladly to suffer fools, I do confess
I have enticed and merited distress,
By this, that I have never bow'd the knee
Before the shrine of wise Hypocrisy,
Nor worn self-righteous anger like a dress.

Yet write you this, sweet one, when I am dead:
Love like a lamp sway'd over all his days
And all his life was like a lamp-lit chamber,
Where is no nook, no chink unvisited
By the soft affluence of golden rays,
And all the room is bathed in liquid amber.'