Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

Thơ tình Ted Hughes


Ted Hughes và Sylvia Plath

BỘ TRƯỞNG THƠ CA
(The Minister Of Poetry)

Tặng Yehuda Amichai

Buổi chiều hôm ấy anh và em thơ thẩn
ngang qua văn phòng Công đảng ở phố Hayarkon
Dưới ánh sáng đèn
em nói rằng: “Người ta đang chọn lựa
những Bộ trưởng cho chính phủ mới được bầu ra.
Em muốn đến nói với họ
rằng cần bầu tôi làm Bộ trưởng Thơ ca”.
Nhưng thay vì làm thế chúng mình lại đi xa
để đến đọc thơ ở Sứ quán Mỹ.

Ở đó người nghe đông vô kể
có đồ uống và bánh xăng-uých nhỏ
bài diễn văn của một vị giáo sư
có nhắc đến một vị nào đó rất to
và danh sách sơ tuyển
để trao giải thưởng lớn.

thế rồi cũng kết thúc đêm thơ.

Nhưng kể từ đêm ấy
với anh em là
Bộ trưởng của Thơ ca
mãi mãi.


The Minister Of Poetry

To Yehuda Amichai

We were walking by the Labor Party Office
one night on Hayarkon Street.
The lights were on,
and you said, "They are choosing
the ministers for the new government.
I should go in and tell them
they need me as the Minister of Poetry."
We walked on instead
to read at the American Embassy

There was a large crowd there,
drinks and little sandwiches,
a contextualizing speech by some professor
with someone important mentioning
something about a shortlist
for the big prize

and then the evening was over.

But you remain, for me,
from that night on
always
the Minister of Poetry.



Thần học


Không, con rắn chưa từng
Dụ Eva ăn trái cấm
Tấm cả chỉ đơn giản
Là sự thật bị uốn cong.

Adam ăn quả táo
Eva ăn Adam
Con rắn ăn Eva
Trong ruột tối tăm. 

Nhưng con rắn, khi ấy
Ngủ say trong thiên đường
Và mỉm cười hân hoan
Nghe lời Thiên Chúa gọi.


Theology

"No, the serpent did not
Seduce Eve to the apple.
All that's simply
Corruption of the facts.

Adam ate the apple.
Eve ate Adam.
The serpent ate Eve.
This is the dark intestine.

The serpent, meanwhile,
Sleeps his meal off in Paradise -
Smiling to hear
God's querulous calling."



Giống nòi 

Khởi thủy là Tiếng kêu
Tiếng kêu sinh Máu
Máu sinh ra Mắt
Mắt sinh Nỗi sợ
Nỗi sợ sinh Cánh
Cánh sinh ra Xương
Xương sinh ra Đá
Đá sinh Hoa tím
Hoa tím sinh Đàn
Đàn sinh Mồ hôi
Mồ hôi sinh Adam
Adam sinh Maria
Maria sinh Chúa
Chúa sinh Hư vô
Hư vô sinh Không bao giờ
Không bao giờ, Không bao giờ

Không bao giờ sinh Quạ

Quạ đòi Máu
Đòi Giun, mẩu Bánh mì
Đòi bất cứ cái gì

Đang rung rinh trong tổ. 


Lineage

“In the beginning was Scream
Who begat Blood
Who begat Eye
Who begat Fear
Who begat Wing
Who begat Bone
Who begat Granite
Who begat Violet
Who begat Guitar
Who begat Sweat
Who begat Adam
Who begat Mary
Who begat God
Who begat Nothing
Who begat Never
Never Never Never

Who begat Crow

Screaming for Blood
Grubs, crusts
Anything

Trembling featherless elbows in the nest's filth”



BI KỊCH QUẢ TÁO

Vào ngày thứ bảy
Con rắn được nghỉ ngơi
Chúa bước đến, cất lời:
“Ta có trò chơi mới”.

Con rắn nhìn rất ngạc nhiên
Tại sao lại như vậy.
Chúa nói: “Ngươi có thấy quả táo?
Ta bóp nó, và nhìn xem – Cider”.

Con rắn uống ngon lành
Và cuộn tròn thành dấu hỏi.
Adam uống và nói: “Làm Chúa tôi nhé”.
Eva uống xong thì dạng đôi chân.

Eva gọi con rắn đang điên cuồng
Và trao hết thân mình cho rắn
Để báo cho Adam, Chúa chạy đến
Thấy Adam đã treo cổ trong vườn.

Con rắn kêu lên: “Hãy dừng, hãy dừng”
Nhưng thứ nước đã làm cho mất giọng
Eva kêu: “Đồ hiếp dâm! Hiếp dâm!”
Và dùng chân giẫm lên đầu con rắn.

Bây giờ mỗi khi con rắn xuất hiện
Eva kêu: “Cứu em với! Cứu em!”
Adam lấy ghế đập đầu con rắn
Và Chúa nói: “Ta rất hài lòng”

Và mọi thứ đều đi về địa ngục.

Apple Tragedy 

So on the seventh day
The serpent rested.
God came up to him.
'I've invented a new game,' he said.

The serpent stared in surprise
At this interloper.
But God said: 'You see this apple?
I squeeze it and look — Cider.'

The serpent had a good drink
And curled up into a questionmark.
Adam drank and said: 'Be my god.'
Eve drank and opened her legs

And called to the cockeyed serpent
And gave him a wild time.
God ran and told Adam
Who in drunken rage tried to hang himself in the orchard.

The serpent tried to explain, crying 'Stop'
But drink was splitting his syllable
And Eve started screeching: 'Rape! Rape!'
And stamping on his head.

Now whenever the snake appears she screeches
'Here it comes again! Help! Help!'
Then Adam smashes a chair on its head,
And God says: 'I am well pleased'

And everything goes to hell.



SÁT HẠCH TẠI CỬA TỬ CUNG

Ai sở hữu đôi chân nhỏ bé kia? Cái chết.
Ai sở hữu khuôn mặt kia đỏ ửng? Tử thần.
Ai sở hữu lá phổi còn hoạt động? Cái chết.
Ai sở hữu chiếc áo cơ bắp này? Tử thần.
Ai sở hữu những khúc ruột này? Cái chết.
Ai sở hữu bộ não đáng ngờ kia? Tử thần.
Thế tất cả dòng máu lộn xộn này? Cái chết.
Thế đôi mắt hiệu quả tối thiểu kia? Tử thần.
Thế cái lưỡi nhỏ độc ác này? Cái chết.
Thế sự thức giấc hằng đêm kia? Tử thần. 

Được tặng hay ăn cắp, hoặc bị giữ để chờ xử lý?
Bị giữ để chờ xử lý.

Ai sở hữu toàn bộ mưa, đất đá? Tử thần.
Ai sở hữu tất cả không gian? Cái chết.

Ai mạnh hơn hy vọng? Tử thần.
Ai mạnh hơn ước muốn? Cái chết.
Mạnh hơn tình yêu? Tử thần.
Mạnh hơn cuộc sống? Cái chết.

Nhưng ai mạnh hơn Cái chết?
                           Tôi, tất nhiên.

Xin mời Quạ đi qua.

Examination at the Womb-Door

Who owns those scrawny little feet?    Death.
Who owns this bristly scorched-looking face?    Death.
Who owns these still-working lungs?    Death.
Who owns this utility coat of muscles?    Death.
Who owns these unspeakable guts?    Death.
Who owns these questionable brains?    Death.
All this messy blood?    Death.
These minimum-efficiency eyes?    Death.
This wicked little tongue?    Death.
This occasional wakefulness?    Death.

Given, stolen, or held pending trial?
Held.

Who owns the whole rainy, stony earth?    Death.
Who owns all of space?    Death.

Who is stronger than hope?    Death.
Who is stronger than the will?    Death.
Stronger than love?    Death.
Stronger than life?    Death.

But who is stronger than Death?
                          Me, evidently.

Pass, Crow.



LÝ THUYẾT CỦA QUẠ

Quạ hiểu rằng Đức Chúa Trời yêu nó
Nếu không, Quạ đã không còn.
Và điều này đã được chứng minh.
Quạ ngạc nhiên nghe tim mình rộn rã.

Và hiểu rằng Chúa đặt tên cho Quạ
Sự tồn tại là mặc khải của Ngài.

Nhưng cái gì
Yêu những viên đá và gọi tên là đá?
Chúng dường như cũng tồn tại đấy thôi.
Và những gì nói lên sự lặng im kỳ lạ
Sau khi tiếng kêu đã lặng tiếng im hơi?

Và những gì yêu thích viên đạn
Thoát ra từ những con quạ xác khô?
Điều gì đã nói lên sự im lặng của chì?

Quạ nhận ra rằng có hai vị thần –

Một trong số họ lớn hơn thần khác
Vị thần này rất yêu kẻ địch
Và có tất cả vũ khí cho mình. 

Crow's Theology

Crow realized God loved him –
Otherwise, he would have dropped dead.
So that was proved.
Crow reclined, marvelling, on his heart-beat.

And he realized that God spoke Crow –
Just existing was His revelation.

But what
Loved the stones and spoke stone?
They seemed to exist too.
And what spoke that strange silence
After his clamour of caws faded?

And what loved the shot-pellets
That dribbled from those strung-up mummifying crows?
What spoke the silence of lead?

Crow realized there were two Gods –

One of them much bigger than the other,
Loving his enemies
And having all the weapons.



QUẠ VÀ BIỂN

Quạ cố gắng phớt lờ biển
Nhưng nó lớn hơn cái chết, lớn hơn cuộc đời.

Quạ cố gắng chuyện trò cùng biển cả
Nhưng não biến mất và đôi mắt nhăn nhó như vì lửa.

Quạ cố gắng để mà yêu biển.
Nhưng biển đuổi đi như cái chết đuổi ta đi.

Quạ cố gắng để mà ghét biển.
Nhưng cảm thấy mình là con thỏ bị ném từ vách đá dựng.

Quạ cố gắng ở cùng một thế giới với biển
Nhưng phổi của nó không đủ sâu

Và máu của nó mạnh mẽ chảy ra
Giống như giọt nước tuôn từ bếp nóng.

Cuối cùng

Quạ quay lưng lại và đi xa biển

Như người bị đóng đinh không thể đưa chân.  

Crow and the Sea

He tried ignoring the sea
But it was bigger than death, just as it was bigger than life.

He tried talking to the sea
But his brain shuttered and his eyes winced from it as from open flame.

He tried sympathy for the sea
But it shouldered him off - as a dead thing shoulders you off.

He tried hating the sea
But instantly felt like a scrutty dry rabbit-dropping on the windy cliff.

He tried just being in the same world as the sea
But his lungs were not deep enough

And his cheery blood banged off it
Like a water-drop off a hot stove.

Finally

He turned his back and he marched away from the sea

As a crucified man cannot move.



QUẠ ĐEN HƠN 
HẾT BAO GIỜ 

Khi Chúa chán ghét con người
Chúa quay mặt hướng về trời.
Và con người, khi giận Chúa,
Quay về phía Eva
Mọi thứ dường như sụp đổ.

Nhưng con Quạ. . con Quạ
Con Quạ dùng móng vuốt của nó
Kết nối trái đất cùng với bầu trời –

Khi đó con người khóc nhưng bằng giọng của Chúa.
Và Chúa chảy máu nhưng bằng máu con người.

Rồi chỗ kết nối trời đất kêu răng rắc.
Sự hoại thư và mùi hôi thối bắt đầu
Một nỗi kinh hoàng ngoài sự cứu chuộc.

Sự đau đớn không giảm đi.

Người không thể là người, Chúa không là Chúa.

Đau khổ

Lớn lên.

Con Quạ

Cười nhe răng

Kêu lên: “Đây là Sáng tạo của mình”

Như một ngọn cờ đen bay phấp phới.

Crow Blacker than Ever

When God, disgusted with man,
Turned towards heaven.
And man, disgusted with God,
Turned towards Eve,
Things looked like falling apart.

But Crow . . Crow
Crow nailed them together,
Nailing Heaven and earth together -

So man cried, but with God's voice.
And God bled, but with man's blood.

Then heaven and earth creaked at the joint
Which became gangrenous and stank -
A horror beyond redemption.

The agony did not diminish.

Man could not be man nor God God.

The agony

Grew.

Crow

Grinned

Crying: 'This is my Creation,'

Flying the black flag of himself.



BÀI HỌC ĐẦU TIÊN CỦA QUẠ

Chúa cố gắng dạy cho Quạ cách nói chuyện.
“Tình yêu”, Chúa nói. “Con hãy nói: Tình - Yêu”. 
Quạ há hốc miệng, con cá mập trắng rơi xuống biển
Và nó bơi đi xuống, đi khám phá chiều sâu.

“Không phải”, Chúa nói: “Tình yêu”. Nào hãy thử: “Tình yêu”.
Quạ há hốc miệng, và ruồi muỗi, côn trùng bay tới
Quay vù vù rồi dần dần thu nhỏ lại
Trong nồi thịt tự chúng dẫn xác vào.

“Thử lần cuối nào”, Chúa nói. “Nào, TÌNH YÊU”.
Con Quạ co giật, há hốc miệng, và vặn vẹo
Một cái đầu đàn ông không thân thể
Rơi xuống đất với đôi mắt tròn xoe
Thể hiện một điều gì rất phẫn nộ. 

Và con Quạ ợ, trước khi Chúa có thể ngăn lại nó.
Và âm môn của phụ người nữ rơi xuống cổ đàn ông.
Hai người vật lộn với nhau trên bãi cỏ xanh.
Chúa cố gắng tách họ ra, khóc lóc, nguyền rủa – 

Con quạ bay đi cảm thấy lỗi lầm.

Crow's First Lesson

God tried to teach Crow how to talk.
'Love,' said God. 'Say, Love.'
Crow gaped, and the white shark crashed into the sea
And went rolling downwards, discovering its own depth.

'No, no,' said God. 'Say Love. Now try it. LOVE.'
Crow gaped, and a bluefly, a tsetse, a mosquito
Zoomed out and down
To their sundry flesh-pots.

'A final try,' said God. 'Now, LOVE.'
Crow convulsed, gaped, retched and
Man's bodiless prodigious head
Bulbed out onto the earth, with swivelling eyes,
Jabbering protest –

And Crow retched again, before God could stop him.
And woman's vulva dropped over man's neck and tightened.
The two struggled together on the grass.
God struggled to part them, cursed, wept –

Crow flew guiltily off.


MẶT ĐẤT – TRĂNG 

Ngày xửa ngày xưa có người đàn ông.
Một hôm đi dọc theo con đường.
Nhìn thấy mặt trăng tròn sáng sủa
Trăng phá hủy đá ven đường, nhà cửa,
Rồi từ từ ra gặp người đàn ông.
Che mắt đàn ông bằng ánh trăng rực rỡ.
Người đàn ông rút dao găm của mình
Bắt đầu ra đòn: đâm, đâm và đâm.
Từ vết thương của trăng thoát ra tiếng khóc
Tiếng khóc này bao trùm lên mặt đất.
Giống như quả khinh khí cầu bị đâm
Mặt trăng bắt đầu giảm dần, giảm dần
Cho đến khi mặt trăng biến mất
Nhưng vẫn còn đây mảnh khăn nhung
Đã bị rách và ướt đầm nước mắt.
Người đàn ông nhặt nó lên đi tiếp.
Đi vào trong đêm tối không trăng
Mang theo vật phẩm kỳ lạ của mình.

Earth-Moon

Once upon a time there was a person
He was walking along
He met the full burning moon
Rolling slowly twoards him
Crushing the stones and houses by the wayside.
She shut his eyes from the glare.
He drew his dagger
And stabbed and stabbed and stabbed.
The cry that quit the moon's wounds
Circled the earth.
The moon shrank, like a punctured airship,
Shrank, shrank, smaller, smaller,
Till it was nothing
But a silk handkerchief, torn,
And wet as tears.
The person picked it up. He walked on
Into moonless night
Carrying his strange trophy.



BẢN NĂNG CỦA QUẠ

Quạ đi theo Uy-lít-xơ cho đến khi anh
Thành một con sâu, mà Quạ đã ăn.

Vật lộn với hai con rắn của Héc-quyn
Anh ta đã siết cổ Dejanira do nhầm.

Vàng tan ra từ tro tàn của Héc-quyn 
Thành một điện cực trong não của Quạ.

Uống máu Beowulf và bọc trong da của anh
Quạ giao tiếp với linh hồn ồn ào trong ao cũ.

Cánh của Quạ là bìa cứng của cuốn sách duy nhất
Tự thân Quạ là một trang sách duy nhất bằng mực.

Vì vậy, Quạ nhìn chằm chằm vào vũng lầy quá khứ
Giống như người Digan vào tinh thể của tương lai

Giống như con báo vào vùng đất màu mỡ.

Crowego

Crow followed Ulysses till he turned
As a worm, which Crow ate.

Grappling with Hercules' two puff-adders
He strangled in error Dejanira.

The gold melted out of Hercules' ashes
Is an electrode in Crow's brain.

Drinking Beowulf's blood, and wrapped in his hide,
Crow communes with poltergeists out of old ponds.

His wings are the stiff back of his only book,
Himself the only page — of solid ink.

So he gazes into the quag of the past
Like a gypsy into the crystal of the future,

Like a leopard into a fat land.



TRONG ÁNH MẮT THIÊN THẦN

Trong ánh mắt thiên thần của cô bé
Con Quạ mất hết lông
Trong ánh mắt tò mò của cậu bé
Xương quạ vỡ vụn lung tung.

Trong niềm đam mê của cô bé
Ruột Quạ rơi xuống thành tro
Trong đôi má hồng hào của cậu bé
Quạ trở thành miếng giẻ chẳng nhận ra

Quạ chui vào bụi cây gai, đầu hàng
Trước hư không Quạ đành nhắm mắt
Hãy để đôi chân nhỏ khắp vũ trụ vang lên.

In the Little Girl's Angel Gaze

In the little girl's angel gaze
Crow lost every feather
In the little boy's wondering eyes
Crow's bones splintered

In the little girl's passion
Crow's bowels fell in the dust
In the little boy's rosy cheeks
Crow became an unrecognizable rag

Crow got under the brambles, capitulated
To nothingness eyes closed
Let those infant feet pound through the Universe.

Thơ tình Alfred Edward Housman




ANH ĐÀO ĐÁNG YÊU NHẤT

Anh đào đáng yêu nhất
Hoa treo dọc theo cành
Những bông hoa trắng muốt
Trang điểm mùa Phục sinh.

Tôi tính, bảy mươi năm
Hai mươi không trở lại
Bảy mươi trừ hai mươi
Năm mươi năm còn lại. 

Còn lại năm mươi năm
Kể ra không quá ít
Tôi sẽ đi vào rừng
Ngắm anh đào trong tuyết. 


Loveliest of trees, the cherry now

Loveliest of trees, the cherry now
Is hung with bloom along the bough,
And stands about the woodland ride
Wearing white for Eastertide.

Now, of my threescore years and ten,
Twenty will not come again,
And take from seventy springs a score,
It only leaves me fifty more.

And since to look at things in bloom
Fifty springs are little room,
About the woodlands I will go
To see the cherry hung with snow.


NGÀY XƯA ANH YÊU EM


Ngày xưa anh yêu em
Thanh sạch và can đảm
Thiên hạ ngạc nhiên rằng:
Hắn ta hành động đúng!

Giờ năm tháng qua nhanh
Chẳng chút gì còn lại
Và người ta lại nói:
Hắn tìm ra chính mình!


Oh, when I was in love with you

Oh, when I was in love with you,
Then I was clean and brave,
And miles around the wonder grew
How well did I behave.

And now the fancy passes by,
And nothing will remain,
And miles around they ’ll say that I
Am quite myself again.



NGÀY TÔI HĂM MỐT TUỔI

Ngày tôi hăm mốt tuổi
Tôi nghe lời người khuyên:
“Con hãy tiêu bạc tiền
Nhưng con tim giữ lại
Châu ngọc con hãy dùng
Nhưng tâm hồn giữ lại”.
Nhưng ngày hăm mốt tuổi
Lời khuyên tôi không dùng.

Ngày tôi hăm mốt tuổi
Tôi lại nghe người khuyên:
“Rằng con tim vô tội
Rằng chớ nên hão huyền
Và thổn thức quá đỗi
Kẻo hối hận triền miên”.
Tôi lên hăm hai tuổi
Mới hiểu đúng lời khuyên. 


When I was one-and-twenty

When I was one-and-twenty
       I heard a wise man say,
“Give crowns and pounds and guineas
       But not your heart away;
Give pearls away and rubies
       But keep your fancy free.”
But I was one-and-twenty,
       No use to talk to me.

When I was one-and-twenty
       I heard him say again,
“The heart out of the bosom
       Was never given in vain;
’Tis paid with sighs a plenty
       And sold for endless rue.”
And I am two-and-twenty,
       And oh, ’tis true, ’tis true.


XƯA TÔI VỀ LUDLOW

Xưa tôi về Ludlow
Dưới ánh trăng tái nhợt
Có hai người bạn tốt
Sánh bước cùng với tôi.

Giờ Dick đã qua đời
Còn Ned trong nhà ngục
Tôi lại về Ludlow
Dưới ánh trăng tái nhợt.

When I Came Last to Ludlow

When I came last to Ludlow
Amidst the moonlight pale,
Two friends kept step beside me,
Two honest friends and hale.

Now Dick lies long in the churchyard,
And Ned lies long in jail,
And I come home to Ludlow
Amidst the moonlight pale.

Thơ tình Francis Willam Bourdillon


Francis Willam Bourdillon (22 tháng 3/ 1825 – 13 tháng1/ 1921) – nhà thơ, dịch giả người Anh. 

Sinh ở Trinity Parsonage, Halton Road, Runcorn, Cheshire, học tại Haileybury College và Worcester College, Oxford, tốt nghiệp B.A. năm 1877, M.A. năm 1882. Từ năm 1876 đến 1879, ông làm gia sư cho các con trai của Hoàng tử Christian của Schleswig-Holstein, sau đó ông sống ở Eastbourne, và ở Midhurst, Sussex. Ông dạy ở trường cao đẳng Eastbourne.

Ông nổi tiếng nhờ bài thơ Đêm có nghìn con mắt (The Night Has a Thousand Eyes) được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tiếng Việt cũng có một số bản dịch bài thơ này. 


ĐÊM CÓ NGHÌN CON MẮT 

Đêm nhìn bằng hàng nghìn con mắt
Còn ngày chỉ có một mắt nhìn
Nhưng không có mặt trời – trên mặt đất
Bóng tối trải dài như khói bay lên.

Lý trí nhìn bằng hàng nghìn con mắt
Còn trái tim chỉ có một mắt nhìn
Nhưng không có tình yêu – cuộc đời sẽ tắt
Và ngày trôi như ngọn khói bay lên.
1874


Variant:
ĐÊM NHÌN BẰNG HÀNG NGHÌN CON MẮT

Đêm nhìn bằng hàng nghìn con mắt
Còn ngày chỉ có một mắt nhìn
Nhưng ánh sáng trên đời này sẽ tắt
Mặt trời đi mang tất cả theo mình.

Trí tuệ với nghìn ý tưởng cháy lên
Còn tình yêu chỉ một niềm say đắm
Nhưng cuộc đời chỉ còn lại bóng đêm
Tình ra đi mang theo mình ánh sáng.


GIỌNG ĐÃ KHÔNG CÒN

Suốt cả ngày tai tôi nghe ngàn giọng
Cho đến khi ánh sáng nhạt nhòa hơn
Nhưng bỗng lặng im khi màn đêm đến
Đâu rồi họa mi, tiếng hát của em?

Có phải tiếng vang mờ nhạt, xa dần?
Đây im lặng như thiên đường trên ấy
Trời không sao, mặt đất không giọng nói
Và giấc mơ tình không ở trong tim.

A lost voice 

A thousand voices fill my ears
    All day until the light grows pale;
But silence falls when night-time nears,
    And where art thou, sweet nightingale?

Was that thine echo, faint and far?
    Nay, all is hushed as heaven above;
In earth no voice, in heaven no star,
    And in my heart no dream of love.



108 NHÀ THƠ ANH







© Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch và chú giải.
Không đăng lại trên các trang Web với mục đích thương mại.