Thứ Ba, 16 tháng 6, 2020

Thơ tình Karolina Pavlova


EM BÂY GIỜ CÓ SUY NGHĨ VỀ ANH

Em bây giờ có suy nghĩ về anh
Không lầm lỗidù có phần buồn bã!
Lòng em hướng về miền đất xa xăm
Về số phận đã từ lâu xa lạ.

Nhiều năm qua – và những ngày đau khổ
Và ngày vui chưa từng gặp một lần
Rất nhiều năm – và còn hơn thế nữa
Biến cố làm thay đổi em và anh.

Anh và em chia tay không như thế
Ta chia tay – thi sĩ, còn nhớ chăng?
Món quà hạnh phúc là do phận số
Mà, có thể là: có, có thể - không!

Ai đã từng có ảo ảnh màu hồng
Những giấc mơ cầu toàn và kiêu hãnh?
Ai từng ngăn lại phút giây xúc cảm
Ánh hoàng hôn, những ngọn sóng triều dâng?

Ai không bảo vệ? Sợ hãi, lặng câm
Trước thần tượng đã không còn uy tín?...


К тебе теперь я думу обращаю

К тебе теперь я думу обращаю,
Безгрешную, хоть грустную,— к тебе!
Несусь душой к далекому мне краю
И к отчужденной мне давно судьбе.

Так много лет прошло,— и дни невзгоды,
И радости встречались дни не раз;
Так много лет,— и более, чем годы,
События переменили нас.

Не таковы расстались мы с тобою!
Расстались мы,— ты помнишь ли, поэт?—
А счастья дар предложен был судьбою;
Да, может быть, а может быть — и нет!

Кто ж вас достиг, о светлые виденья!
О гордые, взыскательные сны?
Кто удержал минуту вдохновенья?
И луч зари, и ток морской волны?

Кто не стоял? испуганно и немо,
Пред идолом развенчанным своим?..


VỀ CÁI CŨ XƯA

Về cái cũ xưa, những gì đã chết
Ý nghĩ lặng câm đè nặng trong lòng
Trong cuộc đời tôi gặp bao cái ác
Và biết bao tình cảm đã xài hoang
Nhiều hy sinh cho mình không đúng lúc.

Tôi lại bước đi sau mỗi sai lầm
Mà lãng quên bài học đời nghiệt ngã
Tôi bất lực, lầm lẫn giữa đời thường
Tin vào nước mắt, nụ cười, lời nói
Trí tuệ không dứt được khỏi trái tim.

Và tâm hồn và số phận cứng đầu
Giữa những khổ đau đã giành phần thắng
Vào thành công tôi hãy còn tin tưởng
Như con bạc kiên nhẫn và đời chờ
Ngày hạnh phúc, tôi dõi theo ngày tháng.

Kho báu này tiếp theo kho báu khác
Tôi vứt ra mà chẳng thấy thành công
Những kẻ hạnh phúc, những kẻ ngồi gần
Nhìn bằng ánh mắt tham lam, ác độc
Liệu hồn kiên gan có đổi thay chăng?


О былом, о погибшем, о старом

О былом, о погибшем, о старом
Мысль немая душе тяжела;
Много в жизни я встретила зла,
Много чувств я истратила даром,
Много жертв невпопад принесла.

Шла я вновь после каждой ошибки,
Забывая жестокий урок,
Безоружно в житейские ошибки:
Веры в слезы, слова и улыбки
Вырвать ум мой из сердца не мог.

И душою, судьбе непокорной,
Средь невзгод, одолевших меня,
Убежденье в успех сохраня,
Как игрок ожидала упорный
День за днем я счастливого дня.

Смело клад я бросала за кладом,-
И стою, проигравшися в пух;
И счастливцы, сидящие рядом,
Смотрят жадным, язвительным взглядом -
Изменяет ли твердый мне дух? 


NHÂN SƯ

Ê-đíp, than ôi, là một kẻ hành hương
Và Nhân sư trên đường đời đang đợi
Nhìn vào mắt anh vô cùng nghiệt ngã
Không cho một ai được phép qua đường. 

Như thời xưa, ta con cháu sau này
Nhân sư bây giờ vẫn còn hung dữ
Luôn với câu hỏi ác nghiệt lắm thay
Ôi người đẹp với mặt người, mình thú.

Ai trong chúng ta tin mình uổng phí
Không giải ra một câu hỏi chết người
Ai mất tinh thần, người này sẽ bị
Móng vuốt cào thay vì được bờ môi.

Và con đường khắp nơi đẫm máu người
Và xương rơi, rải đầy khắp đất nước
Đến Nhân sư với tình yêu bí mật
Nhưng bây giờ bộ lạc khác đến đây.
1831
__________
*Nhân sư và Ê-đíp (Oedipus) là một truyền thuyết nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại về vị vua huyền thoại của Thebes. Một người anh hùng có số phận bi thảm trong thần thoại Hy Lạp. Trở về sau một thời gian dài vắng bóng ở quê nhà, Ê-đíp gặp Nhân sư – nửa người nửa thú, Nhân sư ra một câu đố: “Con gì sáng đi bằng 4 chân, trưa đi bằng 2 chân, tối đi bằng 3 chân?”. Người không giải được câu đố này sẽ bị Nhân sư giết chết. Tuy nhiên, Ê-đíp đã trả lời rằng đây là con người. Con người bò ở tuổi hài nhi, sau đó đi bằng hai chân và ở tuổi già – dựa vào cây gậy chống. Câu đố của Nhân sư theo nghĩa bóng đề cập đến các vấn đề quan trọng và khó giải quyết nhất trong cuộc sống của mỗi con người. 

Сфинкс

Эдипа сфинкс, увы! он пилигрима
И ныне ждет на жизненном пути,
Ему в глаза глядит неумолимо
И никому он не дает пройти.

Как в старину, и нам, потомкам поздним,
Он, пагубный, является теперь,
Сфинкс бытия, с одним вопросом грозным,
Полукрасавица и полузверь.

И кто из нас, в себя напрасно веря,
Не разрешил загадки роковой,
Кто духом пал, того ждут когти зверя
Наместо уст богини молодой.

И путь кругом облит людскою кровью,
Костями вся усеяна страна...
И к сфинксу вновь, с таинственной любовью,
Уже идут другие племена.


DẠ KHÚC

Anh – người em yêu thương
Quen dần trong đầu óc
Anh là tình, sức lực –
Hãy ngủ trong yên bình!

Anh là sức, là tình
Là ánh sáng soi đường
Những gì đời hứa hẹn –
Hãy ngủ trong yên bình!

Những gì đời cho em
Cứ mối ngày phí uổng
Tất cả là mê sảng –
Hãy ngủ trong yên bình!

Cả mê sảng tuổi xanh
Về hạnh phúc trần thế
Đều là do phận số -
Hãy ngủ trong yên bình!

Do phận số tạo nên
Tất cả trong một hình
Một hành tinh đang cháy –
Hãy ngủ trong yên bình!

Một hành tinh cháy lên
Tia sáng vui cho em
Dù bão giông đe dọa –
Hãy ngủ trong yên bình!

Dù đe dọa bão giông
Dù gió lốc, sấm sét
Cánh buồm em xuyên suốt –
Hãy ngủ trong yên bình!
1851

Серенада

Ты все, что сердцу мило,
С чем я сжился умом:
Ты мне любовь и сила,-
Спи безмятежным сном!

Ты мне любовь и сила,
И свет в пути моем;
Все, что мне жизнь сулила,-
Спи безмятежным сном.

Все, что мне жизнь сулила
Напрасно с каждым днем;
Весь бред младого пыла,-
Спи безмятежным сном.

Весь бред младого пыла
О счастии земном
Судьба осуществила,-
Спи безмятежным сном.

Судьба осуществила
Все в образе одном,
Одно горит светило,-
Спи безмятежным сном!

Одно горит светило
Мне радостным лучом,
Как буря б ни грозила,-
Спи безмятежным сном!

Как буря б ни грозила,
Хотя б сквозь вихрь и гром
Неслось мое ветрило, -
Спи безмятежным сном!

Thơ tình Mark Lisyansky


TÌNH YÊU LÀ GÌ?

Chúng mình chia tay trong ánh hoàng hôn
Còn buổi chiều như ngôi sao xa lắc.
Tình yêu là gì? Đó là gặp mặt
Đến tận cùng, suốt thế kỷ, muôn năm.

Con tàu đang bơi về chốn xa xăm
Không đi khỏi những bàn tay lưu luyến.
Bởi tình yêu không có bờ có bến
Bởi tình yêu không ly biệt cách ngăn.

Không hề có… Giã biệt! Chỉ tiếng vang
Của lời “giã biệt” nhắc đi nhắc lại!
Xa tình yêu không một ai đi khỏi
Không một ai đi khỏi được với tình.

Không ai, không gì thay thế được em
Anh và em – xa mà gần là thế.
Tình yêu là gì? Đó là gặp gỡ
Đến tận cùng, suốt thế kỷ, muôn năm.


На заре мы расстались, а вечер

На заре мы расстались, а вечер
Так далек, как звезда далека.
Что такое любовь? Это встреча
Навсегда, до конца, на века.

Теплоход в долгий рейс уплывает -
Не уйти от протянутых рук.
У любви берегов не бывает,
У любви не бывает разлук.

Не бывает... Прощай! Только эхо
Повторяет «прощай» и «прости»!
От любви никуда не уехать,
От любви никуда не уйти.

Заменить тебя некем и нечем.
Я с тобой - далека и близка.
Что такое любовь? Это встреча
Навсегда, до конца, на века.


MOSKVA CỦA TA
(Bài ca chính thức của Thủ đô Nga)

Thế gian này nhiều nơi đã từng đi
Từng ở rừng, trong chiến hào, công sự
Từng bị chôn sống đôi ba lần có lẻ
Từng yêu trong u sầu, từng hiểu biệt ly.

Nhưng ta quen tự hào về Mát-xcơva
Dù ở đâu ta vẫn luôn nhắc mãi:
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!

Ta yêu những khu rừng nhỏ ngoại ô
Yêu những cây cầu trên sông thành phố
Yêu quảng trường của người – Quảng trường Đỏ
Và ta yêu tiếng chuông của đồng hồ.

Ở những thành phố, ở những vùng xa
Ta nghe tiếng về thủ đô yêu dấu
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!

Ta nhớ về một mùa thu khốc liệt
Lê sáng bừng và tiếng rú xe tăng
Và tiếng thơm còn vọng mãi ngàn năm
Hai mươi tám người con anh dũng nhất.

Và kẻ thù không bao giờ có thể
Bắt cúi đầu nổi thành phố của ta
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!


Моя Москва

Я по свету немало хаживал,
Жил в землянке, в окопах, в тайге,
Похоронен был дважды заживо,
Знал разлуку, любил в тоске.

Но Москвою привык я гордиться
И везде повторял я слова:
Дорогая моя столица,
Золотая моя Москва!

Я люблю подмосковные рощи
И мосты над твоею рекой,
Я люблю твою Красную площадь
И кремлёвских курантов бой.

В городах и далёких станицах
О тебе не умолкнет молва,
Дорогая моя столица,
Золотая моя Москва!

Мы запомним суровую осень,
Скрежет танков и отблеск штыков,
И в веках будут жить двадцать восемь
Самых храбрых твоих сынов.

И врагу никогда не добиться,
Чтоб склонилась твоя голова,
Дорогая моя столица,
Золотая моя Москва!

Thơ tình Wilhelm Küchelbecker


THỨC TỈNH

Sự quên lãng tốt lành
Bay ra từ mí mắt
Hành hạ trong lồng ngực
Những hy vọng tan tành.

Ngày sau có điều chi?
Hoa của ta tàn lụi
Ta giờ nghe tiếng gọi
Mơ ước của lòng ta!

Chúng bay thành đám đông
Kỷ niệm mang theo mình
Niềm vui và tĩnh lặng
Cuộc đời với mùa xuân.

Thần hộ mệnh trao tình
Thiêng liêng cho ta đó!
Bay đi giấc mơ vàng
Mùa xuân thì héo úa!

Пробуждение

Благодатное забвенье
Отлетело с томных вежд;
И в груди моей мученье
Всех разрушенных надежд.

Что несешь мне, день грядущий?
Отцвели мои цветы;
Слышу голос, вас зовущий,
Вас, души моей мечты!

И взвились они толпою
И уносят за собой
Юных дней моих с весною
Жизнь и радость и покой.

Но не ты ль, Любовь святая,
Мне хранителем дана!
Так лети ж, мечта златая,
Увядай, моя весна!


TÌNH YÊU 

Kẻ mang đến hạnh phúc và đau khổ
Có phải ta một lần nữa gặp ngươi?
Cả trong bóng đêm ở nơi giam giữ
Ngươi đã tìm ra ta đó, tình ơi!

Than ôi! Lời chào để làm chi vậy?
Nụ cười kia cho ta để chi tình?
Tinh cầu của người làm ta ấm lại
Liệu đời ta có lần nữa hồi sinh?

Không! Thời của những ước mơ đã hết
Giờ là lúc của hy vọng, của tình
Vì băng giá những gì đau khổ nhất
Máu trong người ta giờ bỗng lạnh tanh.

Liệu bóng đêm, vẻ hân hoan, ánh sáng
Của mắt ích gì cho kẻ tù nhân?
Tia sáng tắt trong tiết trời u ám
Vẻ đẹp hãy quên kẻ đau khổ cho nhanh!

Любовь

Податель счастья и мученья,
Тебя ли я встречаю вновь?
И даже в мраке заточенья
Ты обрела меня, любовь!

Увы! почто твои приветы?
К чему улыбка мне твоя?
Твоим светилом ли согретый
Воскресну вновь для жизни я?

Нет! минула пора мечтаний,
Пора надежды и любви:
От мраза лютого страданий
Хладеет ток моей крови.

Для узника ли взоров страстных
Восторг, и блеск, и темнота?-
Погаснет луч в парах ненастных:
Забудь страдальца, красота!

Thơ tình Yevhen Hrebinka


NHỮNG ĐÔI MẮT ĐEN

Những đôi mắt đen, đôi mắt đắm đuối!
Những đôi mắt đen tuyệt đẹp, cháy bừng!
Ta yêu mến và ta sợ hãi!
Khi nhìn mắt trong giờ phút dữ dằn!

Không ngẫu nhiên mắt đen hơn vực thẳm!
Theo lòng mình ta nhìn thấy màu tang
Thấy ngọn lửa trong mắt đầy chiến thắng
Và một con tim tội nghiệp cháy bừng.

Nhưng mà ta không đau khổ, chẳng buồn
Bởi vẫn từng an ủi ta phận số:
Rằng những gì tốt đẹp nhất trần gian
Ta hiến dâng cho đôi mắt rực lửa!

Черные очи

Очи черные, очи страстные!
Очи жгучие и прекрасные!
Как люблю я вас! Как боюсь я вас!
Знать, увидел вас я в недобрый час!

Ох, недаром вы глубины темней!
Вижу траур в вас по душе моей,
Вижу пламя в вас я победное:
Сожжено на нем сердце бедное.

Но не грустен я, не печален я,
Утешительна мне судьба моя:
Все, что лучшего в жизни бог дал нам,
В жертву отдал я огневым глазам!


BÀI CA

Ngày ấy tôi là thiếu nữ ngây thơ
Ngày quân đội hành quân đi đâu đó
Một buổi chiều. Tôi đứng trước cổng nhà
Đội kỵ mã đang tiến trên đường phố.

Chàng quí tộc đến gần bên cánh cổng
“Người đẹp ơi, uống nước!” – chàng bảo tôi
Chàng uống nước và chàng bắt tay tôi
Và hôn tôi, tấm lưng chàng cúi xuống.

Rồi chàng đi… tôi nhìn theo bước chân
Nóng trong người, đôi mắt tôi vẩn đục
Tôi không làm sao ngủ được suốt đêm
Và suốt đêm mơ về chàng quí tộc.

Một ngày gần đây – tôi thành góa phụ
Bốn cô con gái đã đi lấy chồng
Có vị tường ghé thăm nhà một hôm
Đầy vết thương, tôi nghe người than thở…

Tôi nhìn xem – và bỗng thấy rùng mình
Đấy chàng quí tộc trẻ trung ngày trước
Vẫn giọng nói, vẫn lửa trong ánh mắt
Chỉ có điều mái tóc chẳng còn xanh.

Thế là tôi lại không ngủ suốt đêm
Suốt đêm tôi lại trở thành thiếu nữ.

Песня (Молода еще девица я была...)

Молода еще девица я была,
Наша армия в поход куда-то шла.
Вечерело. Я стояла у ворот -
А по улице все конница идет.

К воротам подъехал барин молодой,
Мне сказал: "Напой, красавица, водой!"
Он напился, крепко руку мне пожал,
Наклонился и меня поцеловал...

Он уехал... долго я смотрела вслед,-
Жарко стало мне, в очах мутился свет,
Целу ноченьку мне спать было невмочь:
Раскрасавец барин снился мне всю ночь.

Вот недавно - я вдовой уже была,
Четырех уж дочек замуж отдала -
К нам заехал на квартиру генерал,
Весь простреленный, так жалобно стонал...

Я взглянула - встрепенулася душой:
Это он, красавец барин молодой;
Тот же голос, тот огонь в его глазах,
Только много седины в его кудрях.

И опять я целу ночку не спала,
Целу ночку молодой опять была.

Thơ tình Arseny Tarkovsky


MƯA ĐÊM

Đấy là chuyện về những giọt mưa rơi
Bay từ trong ánh sáng vào bóng tối.
Theo ý của cái lần đầu tiên ấy
Mình gặp nhau trong một buổi xấu trời.

Và chỉ những cầu vồng trong màn sương
Quanh những ngọn đèn lắt lay, mờ mịt
Chúng đã từng báo cho em biết trước
Một điều rằng thân thiết mối tình anh.

Về điều rằng mùa hè đã qua nhanh
Rằng cuộc sống âu lo và tươi sáng
Và dù em đã sống, nhưng ít lắm
Em hãy còn sống ít ở trần gian.

Những giọt mưa như nước mắt long lanh
Mưa trên gương mặt của em lấp lánh
Mà anh vẫn hãy còn chưa biết đến
Ta sẽ sống qua bao sự điên cuồng.

Anh nghe giọng nói của em xa xăm
Hai chúng mình không giúp gì nhau được
Mưa suốt đêm trên mái nhà gõ đập
Như ngày nào đã từng gõ suốt đêm.

Ночной дождь

То были капли дождевые,
Летящие из света в тень.
По воле случая впервые
Мы встретились в ненастный день.

И только радуги в тумане
Вокруг неярких фонарей
Поведали тебе заране
О близости любви моей,

О том, что лето миновало,
Что жизнь тревожна и светла,
И как ты ни жила, но мало,
Так мало на земле жила.

Как слёзы, капли дождевые
Светились на лице твоём,
А я ещё не знал, какие
Безумства мы переживём.

Я голос твой далёкий слышу,
Друг другу нам нельзя помочь,
И дождь всю ночь стучит о крышу,
Как и тогда стучал всю ночь.


ANH SỢ

Anh sợ là đã quá muộn màng
Để anh đi mơ về niềm hạnh phúc
Anh sợ là đã quá muộn màng
Nhoài người về phía của em
Xa lạ và tối đen như mực.

Anh đã từng biết cái đêm
Cái đêm tôi tăm, không ánh lửa
Và anh đã từng biết đến em
Không lặng yên và rất tươi trẻ
Trong những khi em chẳng có anh.

Anh từng biết, như bao người khác
Trong giờ muộn màng của nỗi buồn anh
Anh từng biết, như bao người khác
Đang nhìn vào đôi mắt rất đen
Những con mắt thật là tai ác.

Và trong cái đêm ghen tỵ của anh
Những gót giày của em gõ nhịp
Và trong cái đêm ghen tỵ của anh
Cơn ấm nồng đầu tiên ngây ngất
Thở dồn trên ngực của em.

Anh từng một thuở trẻ trung
Và em đến từ bao đêm ấy
Anh từng một thuở trẻ trung
Hiểu cái lạnh ngạt hơi đến vậy
Và nước lạnh mùa xuân trong máu của em.

Я боюсь, что слишком поздно
        Т.О. - Т.

Я боюсь, что слишком поздно
Стало сниться счастье мне.
Я боюсь, что слишком поздно
Потянулся я к беззвездной
И чужой твоей стране.

Мне-то ведомо, какою -
Ночью темной, без огня,
Мне-то ведомо, какою
Неспокойной, молодою
Ты бываешь без меня.

Я-то знаю, как другие,
В поздний час моей тоски,
Я-то знаю, как другие
Смотрят в эти роковые,
Слишком темные зрачки.

И в моей ночи ревнивой
Каблучки твои стучат,
И в моей ночи ревнивой
Над тобою дышит диво -
Первых оттепелей чад.

Был и я когда-то молод.
Ты пришла из тех ночей.
Был и я когда-то молод,
Мне понятен душный холод,
Вешний лед в крови твоей.


GIÁ ĐƯỢC NHƯ NGÀY XƯA

Giá được như ngày xưa, từng kiêu hãnh
Thì anh đã bỏ lại em đến muôn đời.
Tất cả những gì không đáng mang theo
Và tất cả những gì không nên bỏ lại – 
Vương quốc của anh giờ hai nửa chia đôi.

Thì anh sẽ nói rằng:
-Em mang đi theo mình
Một trăm lời hứa, một trăm ngày lễ
Một trăm lời. Cái này thì em có thể mang.

Chỉ còn lại cho anh lạnh lẽo bình minh
Và một trăm chuyến tàu đến muộn
Một trăm giọt mưa trên đường tàu điện
Một trăm ngõ, một trăm phố và một trăm
Giọt nước mưa chạy theo vết của em.

Если б, как прежде, я был горделив

Если б, как прежде, я был горделив,
Я бы оставил тебя навсегда;
Все, с чем расстаться нельзя ни за что,
Все, с чем возиться не стоит труда,-
Надвое царство мое разделив.

Я бы сказал:
          - Ты уносишь с собой
Сто обещаний, сто праздников, сто
Слов. Это можешь с собой унести.

Мне остается холодный рассвет,
Сто запоздалых трамваев и сто
Капель дождя на трамвайном пути,
Сто переулков, сто улиц и сто
Капель дождя, побежавших вослед.


TỪ SÁNG SỚM

Từ sáng sớm, anh đợi từ hôm qua
Em không đến – mọi người đoán thế
Em còn nhớ không, tiết trời khi đó?
Như ngày vui! Anh không mặc bành tô.

Hôm nay em đến, trời dành cho ta
Một ngày âm u rất là đặc biệt
Mưa, và đặc biệt là trong giờ chót
Chạy theo nhánh cành những giọt nước mưa.

Không có lời an ủi, không khăn để lau khô… 

С утра я тебя дожидался вчера

С утра я тебя дожидался вчера,
Они догадались, что ты не придешь,
Ты помнишь, какая погода была?
Как в праздник! И я выходил без пальто.

Сегодня пришла, и устроили нам
Какой-то особенно пасмурный день,
И дождь, и особенно поздний час,
И капли бегут по холодным ветвям.

Ни словом унять, ни платком утереть...


NGÀY 25 THÁNG 6 NĂM 1935

Không quan trọng ngày lễ của tôi có màu xám hay màu đỏ
Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng trên cửa sổ luôn có hoa hồng
Không phải là sự biết ơn, mà tình cảm đủ đầy như thế
Trong cái ngày này tôi luôn có được thường xuyên.
Mà nếu tôi không đúng, thì hãy nói vì sao tôi lại cần
Sự yên lặng của cỏ hoa, tình bạn của những khu rừng nhỏ
Những mũi tên của cánh chim, và tiếng suối rì rào thỏ thẻ
Giống như lời tỏ tình của những người vừa điếc lại vừa câm?

25 июня 1935

Хорош ли праздник мой, малиновый иль серый,
Но все мне кажется, что розы на окне,
И не признательность, а чувство полной меры
Бывает в этот день всегда присуще мне.
А если я не прав, тогда скажи - на что же
Мне тишина травы и дружба рощ моих,
И стрелы птичьих крыл, и плеск ручьев, похожий
На объяснение в любви глухонемых?