Thứ Ba, 16 tháng 6, 2020

Thơ tình Vladimir Solovyov


EM YÊU 

Em yêu, hay là em không nhìn thấy 
Tất cả những gì mắt nhìn thấy hai ta 
Chỉ là ánh hồi quang, chỉ là bóng vậy 
Của những gì mà mắt chẳng nhìn ra? 

Em yêu, hay là em không nghe thấy 
Rằng tiếng động cuộc đời có vẻ giòn tan 
Chỉ là tiếng vọng bị làm sai lệch đấy 
Của những lời được trang trọng hoà âm? 

Em yêu, hay là em không cảm thấy 
Rằng chỉ một điều trên cõi trần gian 
Chỉ một điều làm hai con tim gần lại 
Đang nói ra trong lời chào hỏi lặng câm? 
1892

Милый друг, иль ты не видишь 

Милый друг, иль ты не видишь, 
Что всё видимое нами - 
Только отблеск, только тени 
От незримого очами? 

Милый друг, иль ты не слышишь, 
Что житейский шум трескучий - 
Только отклик искаженный 
Торжествующих созвучий? 

Милый друг, иль ты не чуешь, 
Что одно на целом свете - 
Только то, что сердце к сердцу 
Говорит в немом привете?


CHỈ NĂM TRƯỚC 

Chỉ năm trước - với một nỗi buồn đau 
Với nỗi buồn anh chia tay em đó 
Anh mơ thấy em và anh muôn thuở 
Hạnh phúc, cuộc đời, ánh sáng - đã mất nhau. 

Chỉ một năm trôi - trong quên lãng rất mau 
Em biến mất như giấc mơ ngày cũ 
Chỉ bây giờ, phút chốc, anh lại nhớ 
Những ngày xưa cùng với giấc mơ đầu. 
23-12-1874

Лишь год назад — с мучительной тоскою 

Лишь год назад — с мучительной тоскою, 
С тоской безумною тебя я покидал, 
И мнилось мне — навеки я с тобою 
И жизнь, и свет, и счастье потерял. 

Лишь год прошел — в ничтожестве забвенья 
Исчезла ты, как давний, давний сон, 
И лишь порой я вспомню на мгновенье 
Былые дни, когда мне снился он.


HỒ SAIMAA MÙA ĐÔNG* 

Em quấn mình vào trong áo choàng lông 
Em nằm yên trong giấc mơ im lặng 
Không cái chết mà bầu không khí đầy ánh sáng 
Vẻ lặng im này có màu trắng và trong. 

Trong vẻ lặng yên điềm đạm, sâu vô cùng 
Không, anh đi tìm em không hề uổng phí 
Vẫn bóng hình em trước đôi mắt mộng mị 
Nàng tiên - chúa tể của vách đá, rừng thông! 

Em trắng trong, như tuyết ở sau rừng 
Như đêm đông, em có nhiều suy tưởng 
Như lửa bắc cực, em ngập tràn ánh sáng 
Người con gái sáng ngời của hỗn loạn màu đen! 
12-1894. 
__________ 
*Saimaa - hệ thống hồ có diện tích 4400 km2, sâu nhất là 82m - nằm ở phía đông-nam Phần Lan 

На Сайме зимой 

Вся ты закуталась шубой пушистой, 
В сне безмятежном, затихнув, лежишь. 
Веет не смертью здесь воздух лучистый, 
Эта прозрачная, белая тишь. 

В невозмутимом покое глубоком, 
Нет, не напрасно тебя я искал. 
Образ твой тот же пред внутренним оком, 
Фея - владычица сосен и скал! 

Ты непорочна, как снег за горами, 
Ты многодумна, как зимняя ночь, 
Вся ты в лучах, как полярное пламя, 
Темного хаоса светлая дочь!


CẦN GÌ LỜI 

Cần gì lời? Giữa màu xanh vô tận 
Chảy thành luồng những con sóng âm thanh 
Mang đến cho em cháy bỏng ngọn lửa tình 
Và tiếng thở dài của tình yêu câm nín. 

Và rung động bên ngưỡng cửa dịu êm 
Những giấc mơ quên, hướng về em khao khát 
Con đường không khí chẳng hề xa cách 
Chỉ khoảnh khắc - và anh trước mặt em. 

Trong khoảnh khắc này gặp gỡ không thể nhìn 
Ánh sáng xa xôi trên người em toả sáng 
Giấc mơ nặng nề của nhận thức cuộc sống 
Em rũ sạch làu, em buồn bã, đáng yêu hơn. 
9-1892

Зачем слова? В безбрежности лазурной 

Зачем слова? В безбрежности лазурной 
Эфирных волн созвучные струи 
Несут к тебе желаний пламень бурный 
И тайный вздох немеющей любви. 

И, трепеща у милого порога, 
Забытых грез к тебе стремится рой. 
Недалека воздушная дорога, 
Один лишь миг - и я перед тобой. 

И в этот миг незримого свиданья 
Нездешний свет вновь озарит тебя, 
И тяжкий сон житейского сознанья 
Ты отряхнешь, тоскуя и любя.


BỞI VÌ THẾ CHĂNG 

Bởi vì thế chăng, rằng con tim cần 
Sống một mình và yêu chỉ một 
Bởi vì thế chăng, niềm vui không còn 
Một khi anh đời mình chưa trao hết. 

Chính vì thế chăng, bằng số phận mình 
Con đường hai ta trở nên thân thuộc 
Và với em, chỉ với em mà anh 
Có thể tìm cho mình niềm hạnh phúc. 

Chính vì thế chăng, bởi vì thế chăng 
Nhưng trong em, chỉ trong em duy nhất 
Không còn quay trở về, anh đã mất 
Trí tuệ, con tim và cuộc đời anh. 
15-7-1892

Потому ль, что сердцу надо 

Потому ль, что сердцу надо 
Жить одним, одно любя, 
Потому ль, что нет отрады 
Не отдавшему себя; 

Оттого ли, что судьбою 
Наши сблизились пути, 
И с тобой, с тобой одною 
Мог я счастие найти,— 

Оттого ли, потому ли,— 
Но в тебе, в тебе одной 
Безвозвратно потонули 
Сердце, жизнь и разум мой.


KHÔNG CÂU HỎI TỪ LÂU 

Không câu hỏi từ lâu và lời đã không cần 
Anh hướng về em như sông tìm ra biển 
Không nghi ngờ, anh bắt được bóng hình yêu mến 
Và chỉ biết rằng - anh yêu đến cuồng điên. 

Trong ánh bình minh hồng, anh nhận ra em 
Nhìn thấy nụ cười em trong ánh sáng 
Còn khi không có em bên mình, anh chết lặng 
Sẽ hoá thành ngôi sao chói sáng, cháy trên em. 
7-1892

 Нет вопросов давно, и не нужно речей 

Нет вопросов давно, и не нужно речей, 
Я стремлюся к тебе, словно к морю ручей, 
Без сомнений и дум милый образ ловлю, 
Знаю только одно — что безумно люблю. 

В алом блеске зари я тебя узнаю, 
Вижу в свете небес я улыбку твою, 
А когда без тебя суждено умереть, 
Буду яркой звездой над тобою гореть.


CON TIM EM CHẬT CHỘI 

Anh thấy con tim em rất chật chội với anh 
Nhưng đập vỡ nó thì anh vô cùng tiếc. 
Giá mà được, dù chỉ một tia lửa cháy lên 
Em lạnh lẽo, nàng tiên cá thật là ác nghiệt! 

Còn chia tay em và quên thì anh không đủ sức: 
Cả thế giới lúc này đánh mất vẻ thần tiên 
Sẽ im lặng muôn đời trong cái đêm này đen đặc 
Tất cả chuyện cổ tích và những bài hát cuồng điên. 
7-1892

Тесно сердце — я вижу — твое для меня 

Тесно сердце — я вижу — твое для меня, 
  А разбить его было б мне жалко. 
Хоть бы искру, хоть искру живого огня, 
  Ты холодная, злая русалка! 

А покинуть тебя и забыть мне невмочь: 
  Мир тогда потеряет все краски 
И замолкнут навек в эту черную ночь 
  Все безумные песни и сказки.

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

Thơ tình Konstantin Simonov


GỬI ĐỒNG CHÍ TỐ HỮU, 
NGƯỜI DỊCH “ĐỢI ANH VỀ”

Tôi biết rằng thơ của tôi đang sống
Ở đây trong bản dịch đẹp của Anh.
Và sẽ sống đến ngày người vợ vẫn
Ngóng trông chồng về từ cuộc chiến tranh. 

Một phần tư thế kỷ súng không ngừng!
Những người vợ góa vẫn đi ra mộ
Vẫn chờ đợi, thì thơ tôi còn đó
Còn sống trong bản dịch đẹp của Anh. 

Tôi cầu mong ngày ấy đến cho nhanh
Trên con đường đến tự do dằng dặc
Ngày mà thơ, cũng như người, kết thúc
Cuộc hành quân trong bản dịch của Anh. 

Hãy để ngày, khi không còn trông ngóng
Người trở về - yên lặng giữa thiên nhiên
Thì thơ tôi sẽ thở phào nhẹ nhõm
Rồi chết trong bản dịch đẹp của Anh.
1969

Товарищу То Хыу, 
который перевел "Жди меня..."

Я знаю, здесь мои стихи живут
В прекрасном Вашем переводе.
И будут жить, покуда жены ждут
Тех, кто в походе.

Уж четверть века пушки бьют и бьют!
И вдовы на могилы ходят,
И, ждя живых, мои стихи живут
В прекрасном Вашем переводе.

Скорей бы наступил тот год
На длительном пути к свободе,
Когда стихи, как люди, свой поход
Закончат в Вашем переводе.

Пусть в этот день, когда уже не ждут
С войны людей и – тишина в природе,
Мои стихи, легко вздохнув, умрут
В прекрасном Вашем переводе.


EM TỪNG NÓI VỚI ANH

Em từng nói với anh rằng “yêu anh”
Nhưng đấy là trong đêm, qua hàm răng
Còn sáng ra, lời đắng cay “chịu đựng”
Đôi bờ môi mím lại đến nhọc nhằn.

Anh đã tin đôi bờ môi trong đêm
Tin đôi bàn tay nóng bừng, láu lỉnh
Nhưng anh không tin lời trong đêm vắng
Những lời trong đêm thầm kín, vô hình.

Anh hiểu rằng em muốn được yêu anh
Anh biết em đã không hề nói dối
Chỉ về đêm em thường gian dối vậy
Khi xác thân cai trị lấy linh hồn.

Nhưng trong giờ tỉnh táo buổi bình minh
Khi tâm hồn lại như xưa – mạnh mẽ
Thì giá một lần mà em nói “có”
Với anh trong niềm hy vọng, chờ mong.

Và bỗng chiến tranh, sân ga, ly biệt
Nơi không còn một chỗ để ôm em
Với toa tàu ở nhà ga ngoại thành
Trong toa này anh đi về Brest.

Bỗng nhiên cơn gió về đêm vô vọng
Về hạnh phúc, về gối ấm chăn êm
Không có gì giúp được! – như tiếng vang
Là vị của nụ hôn trên áo lính.

Để lời trong cơn say, trong đêm vắng
Anh không nhầm lẫn với những lời xưa
Em bỗng nói với anh rằng “em yêu”
Bằng đôi bờ môi hầu như tĩnh lặng.

Xưa anh chưa từng thấy em như thế
Trước những lời cay đắng buổi chia ly:
Em yêu anh… và sân ga đêm khuya
Đôi bàn tay lạnh giá vì đau khổ.
1941

Ты говорила мне «люблю»

Ты говорила мне «люблю»,
Но это по ночам, сквозь зубы.
А утром горькое «терплю»
Едва удерживали губы.

Я верил по ночам губам,
Рукам лукавым и горячим,
Но я не верил по ночам
Твоим ночным словам незрячим.

Я знал тебя, ты не лгала,
Ты полюбить меня хотела,
Ты только ночью лгать могла,
Когда душою правит тело.

Но утром, в трезвый час, когда
Душа опять сильна, как прежде,
Ты хоть бы раз сказала «да»
Мне, ожидавшему в надежде.

И вдруг война, отъезд, перрон,
Где и обняться-то нет места,
И дачный клязьминский вагон,
В котором ехать мне до Бреста.

Вдруг вечер без надежд на ночь,
На счастье, на тепло постели.
Как крик: ничем нельзя помочь!—
Вкус поцелуя на шинели.

Чтоб с теми, в темноте, в хмелю,
Не спутал с прежними словами,
Ты вдруг сказала мне «люблю»
Почти спокойными губами.

Такой я раньше не видал
Тебя, до этих слов разлуки:
Люблю, люблю... ночной вокзал,
Холодные от горя руки. 
1941


ANH KHÔNG THỂ LÀM THƠ VỀ EM NỮA

Anh không thể làm thơ về em nữa
Không em ngày xưa, chẳng của bây giờ.
Đã rõ ràng, những lời cay đắng thế
Từ lâu rồi không còn đủ cho ta.

Điều tốt đẹp – cám ơn! Anh không tính
Chuyện nhỏ nhen, bởi một thuở sống cùng
Anh chưa đem cho và chưa từng nhận
Dù chắc gì anh còn nợ tiếng thơm.

Điều ác dữ tựa hồ như gánh nặng
Mà bàn tay em đặt xuống vai anh
Là của anh! Anh tự mình xác định
Đời với anh nghiệt ngã chẳng vô tình.

Lời quở trách muộn màng buông ra gió
Đừng sợ gì trò chuyện đến bình minh.
Chỉ đơn giản không còn yêu em nữa
Nên anh không làm thơ nữa về em.
1954

Я не могу писать тебе стихов

Я не могу писать тебе стихов
Ни той, что ты была, ни той, что стала.
И, очевидно, этих горьких слов
Обоим нам давно уж не хватало.

За все добро - спасибо! Не считал
По мелочам, покуда были вместе,
Ни сколько взял его, ни сколько дал,
Хоть вряд ли задолжал тебе по чести.

А все то зло, что на меня, как груз,
Навалено твоей рукою было,
Оно мое! Я сам с ним разберусь,
Мне жизнь недаром шкуру им дубила.

Упреки поздно на ветер бросать,
Не бойся разговоров до рассвета.
Я просто разлюбил тебя. И это
Мне не дает стихов тебе писать.


LINH CẢM TÌNH YÊU

Linh cảm của tình yêu còn kinh hoàng
Hơn cả tình. Tình yêu là trận đánh
Mắt nhìn mắt, bạn gặp gỡ với tình
Không đợi gì, tình yêu cùng với bạn.

Linh cảm của tình yêu – như biển động
Đã hơi hơi đôi bàn tay ướt dầm
Nhưng vẫn hãy còn lặng im, và tiếng
Đàn dương cầm nghe rõ sau bức mành. 

Còn trên áp kế hướng về ma quỉ
Tất cả đang rơi, áp lực rơi nhanh
Trong nỗi sợ hãi trước ngày tận thế
Áp vào bến bờ khi đã muộn màng.

Không, tệ hơn. Điều này như chiến hào
Nơi bạn ngồi chờ để xông vào trận
Còn đằng kia, cách nửa dặm vexta
Người cũng chờ để đạn xuyên vào trán… 
1945

Предчувствие любви страшнее

Предчувствие любви страшнее
Самой любви. Любовь - как бой,
Глаз на глаз ты сошелся с нею.
Ждать нечего, она с тобой.

Предчувствие любви - как шторм,
Уже чуть-чуть влажнеют руки,
Но тишина еще, и звуки
Рояля слышны из-за штор.

А на барометре к чертям
Все вниз летит, летит давленье,
И в страхе светопреставленья
Уж поздно жаться к берегам.

Нет, хуже. Это как окоп,
Ты, сидя, ждешь свистка в атаку,
А там, за полверсты, там знака
Тот тоже ждет, чтоб пулю в лоб...


MUỐN ĐƯỢC GỌI EM LÀ NGƯỜI VỢ

Anh muốn được gọi em là người vợ
Vì người ta không gọi thế bao giờ
Vì ngôi nhà anh chiến tranh tàn phá
Em đến làm khách lần nữa, chắc gì.

Vì anh từng mong cho em điều ác
Vì hiếm khi em thấy xót thương anh
Vì em đến không cần chi mời mọc
Khi tự mình đêm ấy đến với anh.

Anh muốn được gọi em là người vợ
Không phải để rồi đem nói cùng ai
Cũng chẳng phải vì từ lâu em đã
Cùng anh trong thêu dệt của người đời.

Anh chẳng phải hám danh vì danh tiếng
Hoặc hư vinh nhờ sắc đẹp của em
Anh chỉ cần vẻ dịu dàng bí ẩn
Của tiếng bước chân em đến nhẹ nhàng.

Cái chết làm ngang hàng bao tên tuổi
Như ga tàu, sắc đẹp sẽ qua nhanh
Và người chủ trong những ngày tháng cuối
Sẽ ghen tuông với ảnh của chính mình. 

Anh muốn được gọi em là người vợ
Vì những ngày ly biệt có vô vàn
Vì sau này những bàn tay xa lạ
Vuốt mắt cho nhiều người sống cùng anh. 

Vì một điều em đã từng chân thật
Không hứa với anh quan trọng một điều
Buổi chia tay của lính trong giờ chót
Em mới lần đầu nói dối – rằng yêu.

Em từng là ai? Của anh hay xa lạ?
Vì thế mà con tim hãy còn xa…
Hãy tha thứ, anh gọi em là vợ
Theo quyền những ai có thể không về.
1941

Мне хочется назвать тебя женой

Мне хочется назвать тебя женой
За то, что так другие не назвали,
Что в старый дом мой, сломанный войной,
Ты снова гостьей явишься едва ли.

За то, что я желал тебе и зла,
За то, что редко ты меня жалела,
За то, что, просьб не ждя моих, пришла
Ко мне в ту ночь, когда сама хотела.

Мне хочется назвать тебя женой
Не для того, чтоб всем сказать об этом,
Не потому, что ты давно со мной,
По всем досужим сплетням и приметам.

Твоей я не тщеславлюсь красотой,
Ни громким именем, что ты носила,
С меня довольно нежной, тайной, той,
Что в дом ко мне неслышно приходила.

Сравнятся в славе смертью имена,
И красота, как станция, минует,
И, постарев, владелица одна
Себя к своим портретам приревнует.

Мне хочется назвать тебя женой
За то, что бесконечны дни разлуки,
Что слишком многим, кто сейчас со мной,
Должны глаза закрыть чужие руки.

За то, что ты правдивою была,
Любить мне не давала обещанья
И в первый раз, что любишь,— солгала
В последний час солдатского прощанья.

Кем стала ты? Моей или чужой?
Отсюда сердцем мне не дотянуться...
Прости, что я зову тебя женой
По праву тех, кто может не вернуться.


HẠNH PHÚC 

Ngày còn bé. Người ta từng hỏi anh:
“Cháu muốn gì để thành người hạnh phúc?”
-“Cháu muốn được cưỡi ngựa phóng lên đường
Và cháu muốn được thổi kèn tập hợp”. 

Thành chàng trai. Người ta đã hỏi chàng:
“Chàng muốn gì để thành người hạnh phúc?”
-“Cháu muốn mình được sống đến trăm năm
Và muốn được đi cùng trời cuối đất”. 

Thành người lính. Và người ta hỏi anh:
“Cậu muốn gì để thành người hạnh phúc?”
-“Tôi biết rằng nếu lựa chọn là cần
Thì tôi chọn hy sinh vì Tổ quốc”. 

Anh đã chết. Người ta hỏi vợ anh:
“Chị muốn gì để mình không bất hạnh?”
-“Tôi muốn, nếu cha chẳng thể hồi sinh
Thì con trai muốn điều như cha muốn”. 
1943

СЧАСТЬЕ

Мальчиком он был. Его спросили:
"Что ты хочешь, чтобы быть счастливым?"
- "Я хочу поехать на лошадке
И подуть в солдатскую трубу".

Юношей он стал. Его спросили:
"Что ты хочешь, чтобы быть счастливым?"
- "Я хочу весь белый свет объехать
И, не старясь, до ста лет прожить".

Стал солдатом он. Его спросили:
"Что ты хочешь, чтобы быть счастливым?"
- "Я хочу, раз выбирать уж надо,
Умереть, чтоб родину спасти".

Умер он. Его вдову спросили:
"Что ты хочешь, чтоб не быть несчастной?"
- "Я хочу, коль он уж не воскреснет,
Чтоб мой сын хотел того ж, что он".


NẾU CHÚA TRỜI

Nếu Chúa Trời bằng quyền lực của mình
Cho ta đến thiên đường sau khi chết
Tôi biết làm gì với tài sản trần gian
Nếu như Ngài nói rằng: cần chọn lọc?

Tôi không cần nơi thiên đường buồn bã
Một người luôn ngoan ngoãn bước theo mình
Có lẽ tôi mang theo người như thế
Người đã từng sống ở cõi trần gian.

Người nông nổi, dữ dằn, hay châm chọc
Dù chẳng dài lâu, nhưng vẫn của mình!
Người đã từng hành hạ trên mặt đất
Sẽ không cho buồn chán ở thiên đường.

Những người bất trị, hư thân như thế
Chẳng mấy ai mang theo đến thiên đường
Vì những người ngoan đạo nơi đó sẽ
Để mắt nhìn, và để ý coi trông.

Tôi có lẽ mang theo mình khoảng cách
Để giày vò mình trước cảnh chia lìa
Để nhớ về trong phút giây ly biệt
Nỗi đau treo trên cổ của bàn tay. 

Tôi có lẽ mang mọi điều nguy hiểm
Để cho người chờ đợi thủy chung hơn
Để đôi mắt em rõ ràng xanh thắm
Đang ở nhà không cho kẻ nhát gan. 

Tôi có lẽ mang theo mình người bạn
Để có người cụng chén khi tiệc tùng
Và kẻ thù để phút giây ghê tởm
Sẽ thù hằn theo kiểu của trần gian. 

Chẳng tình yêu, buồn chán, chẳng xót thương
Ngay cả họa mi Cuốc-xcơ nổi tiếng
Cả những gì nhỏ mọn nhất cũng không
Không bỏ lại nơi trần gian đã sống. 

Cả cái chết, nếu điều này có thể
Tôi cũng không bỏ lại ở trần gian
Tất cả những gì có nơi trần thế
Tôi sẽ mang theo hết đến thiên đường. 

Vì thói tư lợi của người trần thế
Chúa sẽ ngạc nhiên mà chửi mắng tôi
Tôi tin chắc rằng rồi đây Ngài sẽ
Lần nữa đuổi tôi về lại cõi đời.
1941

Если бог нас своим могуществом

Если бог нас своим могуществом
После смерти отправит в рай,
Что мне делать с земным имуществом,
Если скажет он: выбирай?

Мне не надо в раю тоскующей,
Чтоб покорно за мною шла,
Я бы взял с собой в рай такую же,
Что на грешной земле жила,-

Злую, ветреную, колючую,
Хоть ненадолго, да мою!
Ту, что нас на земле помучила
И не даст нам скучать в раю.

В рай, наверно, таких отчаянных
Мало кто приведёт с собой,
Будут праведники нечаянно
Там подглядывать за тобой.

Взял бы в рай с собой расстояния,
Чтобы мучиться от разлук,
Чтобы помнить при расставании
Боль сведённых на шее рук.

Взял бы в рай с собой всё опасности,
Чтоб вернее меня ждала,
Чтобы глаз своих синей ясности
Дома трусу не отдала.

Взял бы в рай с собой друга верного,
Чтобы было с кем пировать,
И врага, чтоб в минуту скверную
По-земному с ним враждовать.

Ни любви, ни тоски, ни жалости,
Даже курского соловья,
Никакой, самой малой малости
На земле бы не бросил я.

Даже смерть, если б было мыслимо,
Я б на землю не отпустил,
Всё, что к нам на земле причислено,
В рай с собою бы захватил.

И за эти земные корысти,
Удивлённо меня кляня,
Я уверен, что бог бы вскорости

Вновь на землю столкнул меня. 

Thơ tình Vsevolod Rozhdestvensky


TÌNH YÊU

Chớ đem ra làm trò với ngôn từ
Sáu chữ cái này, dù người đời quen vậy.
Chúng là lửa. “Tình” gieo vần với “máu”
Là ngôn ngữ tinh, vượt trội của ta.

“Tình” và “máu”. Một khi tim còn đập
Đưa máu chảy trong cơ thể ấm nồng
Bạn như uống từ giếng mạch ngàn năm
Rồi biến ước mơ trở thành hiện thực.

Từ những ngày buồn trong đời thay đổi
Khi mà trong tim tất cả giá băng
Niềm vui của tình mang bạn vào trong
Thế giới diệu kì của bao thay đổi.

Người phụ nữ có biết bao ánh sáng
Là bạn đường trong những bước chông gai
Và con tim lập tức bảo: người này
Vâng, người này – tia sáng trong số phận!

Hãy để nàng là sáng tạo của ước mơ
Là tưởng tượng, là hình dung của bạn
Cùng hơi thở của vĩnh hằng ấm nóng
Đã đặt vào trong tồn tại từ xưa.

Như lời kêu gọi vọng tới ngàn năm
Như ánh sáng bừng sau miền bóng tối
Và ngọn lửa ta truyền cho cháu con
Để đi vào bất tử, như ta vậy.
1946

Любовь

Не отдавай в забаву суесловью
Шесть этих букв, хотя к ним мир привык.
Они — огонь. «Любовь» рифмует с «Кровью»
Приметливый и мудрый наш язык.

«Любовь» и «Кровь». Покуда сердце бьется
И гонит в теле крови теплоту,
Ты словно пьешь из вечного колодца,
Преобразив в действительность мечту.

От тусклых дней в их неустанной смене,
Когда порою сердцу все мертво,
В нежданный мир чудесных превращений
Тебя любви уводит торжество.

Вот женщина, в которой столько света,
Друг в непогоду, спутница в борьбе,—
И сразу сердце подсказало: эта,
Да, только эта — луч в твоей судьбе!

Пускай она мечты твоей созданье,
Одно воображение твое —
С ней вечности горячее дыханье
Уже легло в земное бытие.

Как зов, дошедший из глубин столетий,
Как вспышка света за порогом тьмы,
И наш огонь возьмут в наследство дети,
Чтобы войти в бессмертье, как и мы.


TÌNH YÊU, TÌNH YÊU

Tình yêu, tình yêu – một lời bí ẩn
Liệu có ai hiểu được nó tận cùng?
Trong tất cả - cũ và mới thường xuyên
Mệt mỏi của hồn hay là sung sướng?

Là không thể bù cho mình phí tổn
Hay sự mở mang giàu có không cùng?
Ngày ấm nồng không hề có hoàng hôn
Hay là đêm làm cho tim trống vắng?

Mà có thể, em chỉ là nhắc nhở
Rằng vẫn chờ ta cái lẽ tất nhiên:
Ánh hào quang với bất tỉnh, thiên nhiên
Và sự tuần hoàn của đời muôn thuở.
1976

Любовь, любовь — загадочное слово

Любовь, любовь — загадочное слово,
Кто мог бы до конца тебя понять?
Всегда во всем старо ты или ново,
Томленье духа ты иль благодать?

Невозвратимая себя утрата
Или обогащенье без конца?
Горячий день, какому нет заката,
Иль ночь, опустошившая сердца?

А может быть, ты лишь напоминанье
О том, что всех нас неизбежно ждет:
С природою, с беспамятством слиянье
И вечный мировой круговорот?


TÔI MƠ THẤY

Tôi mơ thấy điều… không thể nói
Trong cái đêm ngột ngạt đã mơ
Đã nhìn thấy lại đường phố ấy
Có những con chim trong tổ đung đưa.

Tôi đã nghe những cây phong đen
Như đang đứng chuyện trò trong im lặng
Tôi hình dung nức nở của vàng anh
Và lửa trại trên đồng tắt ngấm.

Tôi nhìn thấy nhà mình, trên cửa sổ
Ngọn nến cháy bùng, ngọn nến lung linh
Những cây bạch dương đung đưa trước gió
Chạm mái tóc ánh bạc lên vai mình.

Từ cánh đồng xuyên qua làn mây trắng
Lướt như dao cắt cỏ ở trên đồng
Những vì tinh tú – những mắt sống động –
Ngó nhìn vào gương nước lặng trên sông.

Anh có thể kể về rất cặn kẽ
Em đã ra sao trong buổi chiều kia
Váy áo của em xạc xào to nhỏ
Và ánh trăng thanh lộng lẫy chói lòa.

Và để cho hơi thở ngập ngừng
Bằng hơi mát trong đêm tĩnh lặng
Ngày hôm ấy, em tròn mười chín
Anh cũng chừng ấy tuổi, bấy nhiêu em.
1933

Мне снилось... Сказать не умею

Мне снилось... Сказать не умею,
Что снилось мне в душной ночи.
Я видел все ту же аллею,
Где гнезда качают грачи.

Я слышал, как темные липы
Немолчный вели разговор,
Мне чудились иволги всхлипы
И тлеющий в поле костер.

И дом свой я видел, где в окнах,
Дрожа, оплывала свеча.
Березы серебряный локон,
Качаясь, касался плеча.

С полей сквозь туманы седые
К нам скошенным сеном несло,
Созвездия - очи живые -
В речное гляделись стекло.

Подробно бы мог рассказать я,
Какой ты в тот вечер была;
Твое шелестевшее платье
Луна ослепительно жгла.

И мы не могли надышаться
Прохладой в ночной тишине,
И было тебе девятнадцать,
Да столько же, верно, и мне.