Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Anh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Anh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Thơ tình Henry Austin Dobson

 



BALLAD ĐỒ CỔ
 
Ngày đang tàn như cỏ hoa trong nắng
Năm tháng như dòng nước lững lờ trôi
Tất cả đều qua nhanh hết, than ôi!
Như chiếc lá bay theo làn gió cuốn
Mặt trời mới buổi bình minh chầm chậm
Lại theo đường chân trời cũ đi lên
Thời gian gặt và giờ ta nhặt nhạnh
Những chút gì còn lại sau thời gian!
 
Ta gom nhặt những gì trong quá khứ
Bỏ vào thùng để gió chẳng cuốn đi
Như người keo kiệt không chừa thứ gì
Mà số phận ban cho hàng thế kỷ
Những mảnh vở và những biên niên sử
Những bài thơ, những câu chuyện hoang đường
Những trang phục và những bàn tiệc cũ
Những chút gì còn lại sau thời gian!
 
Ta đi gom nhặt những câu chuyện tình
Những bông hoa trong những khu vườn cổ
Những ghi chép cũ ghi trên ngôi mộ
Những chiến lợi phẩm và những cung tên
Những bộ xương cổ, xác những con thuyền
Những di tích cổ còn trên mặt đất
Tất cả những gì lang thang phiêu bạt
Những chút gì còn lại sau thời gian!
 
LỜI GỬI
 
Những bạn bè quen biết hoặc chưa quen
Trong đêm trước Giáng sinh này xin nhớ
Hãy bảo vệ những gì đang phân rã
Những chút gì còn lại sau thời gian.
 
A Ballad of Antiquaries
 
The days decay as flowers of grass,
The years as silent waters flow;
All things that are depart, alas!
As leaves the winnowing breezes strow;
And still while yet, full-orbed and slow,
New suns the old horizon climb,
Old Time must reap, as others sow:
We are the gleaners after Time!
 
We garner all the things that pass,
We harbour all the winds may blow;
As misers we up-store, amass
All gifts the hurrying Fates bestow;
Old chronicles of feast and show,
Old waifs of by-gone rune and rhyme,
Old jests that made old banquets glow: -
We are the gleaners after Time!
 
We hoard old lore of lad and lass,
Old flowers that in old gardens grow,
Old records writ on tomb and brass,
Old spoils of arrow-head and bow,
Old wrecks of old worlds' overthrow,
Old relics of Earth's primal slime,
All drift that wanders to and fro: -
We are the gleaners after Time!
 
ENVOY
 
Friends, that we know not and we know!
We pray you, by this Christmas chime,
Help us to save the things that go:
We are the gleaners after Time.
 
 
URCEUS EXIT*
 
Tôi định viết tụng ca
Lại thành ra sonnet
Làm điều này theo mốt
Tôi định viết tụng ca
Nhưng Rose đi qua
Đội mũ người Ê-cốt
Tôi định viết tụng ca
Lại thành ra sonnet.
____________
*Những lời này lấy từ cuốn “Nghệ thuật thơ ca” (Ars Poetica) của Horace nói về người thợ gốm định nặn bình lại thành ra chậu.
 
Urceus Exit
 
I INTENDED an Ode,
And it turn'd to a Sonnet
It began a la mode,
I intended an Ode;
But Rose cross'd the road
In her latest new bonnet;
I intended an Ode;
And it turn'd to a Sonnet.
 
 


NỤ HÔN
 
Rose hôn tôi hôm nay
Ngày mai có còn hôn nữa?
Cứ để cho đời như vậy
Rose hôn tôi hôm nay.
Nhưng mà chẳng có niềm vui
Và tôi trở nên buồn bã
Rose hôn tôi hôm nay
Ngày mai có còn hôn nữa?
 
A Kiss
 
Rose kissed me to-day.
Will she kiss me tomorrow?
Let it be as it may,
Rose kissed me today.
But the pleasure gives way
To a savour of sorrow;-
Rose kissed me to-day,-
Will she kiss me tomorrow?



Thơ tình Katherine Philips


VỀ CÁI CHẾT CỦA ĐỨA CON ĐẦU LÒNG
 
Tôi lấy chồng đã gần được bảy năm
Rồi cũng sinh được thằng con yêu dấu
Sau bốn chục ngày con không còn nữa
Thật oái oăm niềm vui của người trần!
 
Vừa nhìn thấy con thì con đã mất
Vừa chạm tay đã rụng xuống bông hồng
Nhưng tôi không sợ hãi, không đau buồn
Giống như một bệnh nhân sắp phải chết.
 
Vì đau buồn giúp ích được gì không
Cho cái cảnh trái ngang vì số kiếp?
Nước mắt – nàng thơ, nỗi buồn – nghệ thuật
Tôi viết cho con một khúc bi thương.
 
Tìm một nơi kín đáo mẹ khóc con
Để không ai nhận thấy điều mất mát
Ôi thế gian này bao la bát ngát
Chẳng có lòng thương và thật nhẫn tâm.
 
Mẹ biết đặt gì lên mộ đau buồn
Chỉ những câu thơ bất chấp mọi thứ
Con hãy cất bài thơ này trong mộ
Bài thơ cuối cùng của mẹ đó con.
_____________
*Bài thơ về đứa con trai đầu lòng Hector Philips đã chết sau khi sinh ra 6 tuần. Trên thực tế thì đây không phải là bài thơ cuối cùng của Katherine Philips.
 
On the Death of My First and Dearest Child, Hector Philips
 
Twice forty months in wedlock I did stay,
Then had my vows crowned with a lovely boy.
And yet in forty days he dropped away;
O swift vicissitude of human joy!
 
I did but see him, and he disappeared,
I did but touch the rosebud, and it fell;
A sorrow unforeseen and scarcely feared,
So ill can mortals their afflictions spell.
 
And now (sweet babe) what can my trembling heart
Suggest to right my doleful fate or thee?
Tears are my muse, and sorrow all my art,
So piercing groans must be thy elegy.
 
Thus whilst no eye is witness of my moan,
I grieve thy loss (ah, boy too dear to live!)
And let the unconcerned world alone,
Who neither will, nor can refreshment give.
 
An offering too for thy sad tomb I have,
Too just a tribute to thy early hearse;
Receive these gasping numbers to thy grave,
The last of thy unhappy mother's verse.
 
 


BÀI CA
 
Quả thật, đời ta chỉ là bệnh tật
Chỉ nỗi đau mà cứ ngỡ dễ dàng
Những ngôi sao là hạnh phúc, thành công
Xin hãy nói giùm cho tôi biết
Tại vì sao khó để mà chết
Còn sống thì cũng chẳng giản đơn!
 
Nếu niềm vui bị đánh tráo bằng nỗi buồn
Thì ai trả lại cho ta cuộc sống
Mọi thứ đều do số phận, thời gian
Không còn niềm hy vọng
Không còn mục đích cuộc sống
Ta không coi là gánh nặng của mình.
 
Song
 
'Tis true our life is but a long disease,
Made up of real pain and seeming ease.
You stars, who these entangled fortunes give,
O tell me why
It is so hard to die,
Yet such a task to live!
 
If with some pleasureb we our griefs betray,
It costs us dearer than it can repay,
For time or fortune all things so devours,
Our hopes are crossed,
Or els the object lost,
Ere we can call it ours.


Thơ tình William Makepeace Thackeray


NỖI ĐAU CỦA CHÀNG WERTHER
 
Chàng Werther yêu nàng Charlotte
Có lẽ chưa từng ai yêu như thế
Bạn có biết lần đầu chàng gặp gỡ
Khi cô nàng thái bánh mì kẹp bơ.
 
Charlotte là người đã có gia đình
Werther là người đàn ông đạo đức
Chàng không muốn đem điều gì đặt cược
Để làm cho người yêu dấu tổn thương.
 
Chàng thở dài, nức nở, chàng đau buồn
Nhưng niềm đam mê ngày càng sôi sục
Cuối cùng chàng đã tìm ra súng lục
Bắn vào trán mình cho não nổ tung.
 
Charlotte nhìn xác của Werther
Trong tim chàng ngọn lửa tình đã tắt
Nhưng như người đàn bà có giáo dục
Nàng tiếp tục thái bánh mì kẹp bơ.
 
Sorrows of Werther
 
Werther had a love for Charlotte
   Such as words could never utter;
Would you know how he first he met her?
   She was cutting bread and butter.
 
Charlotte was a married lady,
   And a moral man was Werther,
And for all the wealth of Indies,
   Would do nothing for to hurt her.
 
So he sighed and pined and ogled,
   And his passion boiled and bubbled,
Till he blew his silly brains out,
   And no more was by it troubled.
 
Charlotte, having seen his body
   Born before her on a shutter
Like a well-conducted person,
   Went on cutting bread and butter.
 
 


VANITAS VANITATUM*
 
Lời của nhà thông thái, vua Solomon?
(Từ cuốn sách mà tôi luôn thích đọc)
Rằng công việc của loài người rốt cục
Tất cả hư không, thảy đều hư không.
 
Một cuốn sách có bìa được mạ vàng
Mà những học sinh thường dùng để học
Nhưng những lời này là khôn ngoan nhất
Quí giá hơn mọi chân lý trần gian!
 
Chìa khóa của tồn tại chớ đi tìm**
Ở những người Nga, Anh, Pháp, Đức
Trong album có hàng trăm bài viết
Bằng những ngôn ngữ trên khắp hành tinh!
 
Những câu chuyện về cuộc đời con người
Một chuỗi phiêu lưu, biết bao thay đổi
Tuyệt vời hơn biết bao câu chuyện mới
Có biết bao nhiêu biến đổi ở đây!
 
Một loạt những trận thua và trận thắng
Trong số phận đầy những thứ bất ngờ
Sinh và tử, xuống chó và lên voi
Cái thấp hèn trong những điều cao thượng.
 
Bạn nhìn thấy hào quang và sụp đổ
Sự nghiệt ngã trong số phận con người
Nỗi sợ hãi đồng hành khắp mọi nơi
Sự phản bội, dối gian và đau khổ.
 
Người thấp hèn vươn lên cao ra sao
Người cao thượng từ trên cao lộn xuống
Tất cả đều là hư không, phù phiếm
Là mớ bòng bong như một trò đùa!
 
Giữa trang những câu đùa của Janin**
Và trang của Đại sứ từ nước Thổ
Tôi viết tên của mình lên trên đó
Và tôi kết thúc bài giảng của mình.
_____________
*Hư không, thảy đều hư không (tiếng Latin).
**Janin – nhà văn, nhà phê bình và nhà báo Pháp, Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. William Thackeray viết giữa các trang của Jules Janin và Đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ trong cuốn album dành cho khách mời của Madame de R., trong đó có chữ ký của các vị vua, hoàng tử, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà ngoại giao, nhà văn và chính khách từ các quốc gia khác nhau.
 
Vanitas Vanitatum
 
How spake of old the Royal Seer?
(His text is one I love to treat on.)
This life of ours he said is sheer
Mataiotes Mataioteton.
 
O Student of this gilded Book,
Declare, while musing on its pages,
If truer words were ever spoke
By ancient, or by modern sages!
 
The various authors' names but note,*
French, Spanish, English, Russians, Germans:
And in the volume polyglot,
Sure you may read a hundred sermons!
 
What histories of life are here,
More wild than all romancers' stories;
What wondrous transformations queer,
What homilies on human glories!
 
What theme for sorrow or for scorn!
What chronicle of Fate's surprises—
Of adverse fortune nobly borne,
Of chances, changes, ruins, rises!
 
Of thrones upset, and sceptres broke,
How strange a record here is written!
Of honors, dealt as if in joke;
Of brave desert unkindly smitten.
 
How low men were, and how they rise!
How high they were, and how they tumble!
O vanity of vanities!
O laughable, pathetic jumble!
 
Here between honest Janin's joke
And his Turk Excellency's firman,
I write my name upon the book:
I write my name—and end my sermon.
______________
*Between a page by Jules Janin, and a poem by the Turkish Ambassador, in Madame de R...’s album, containing the autographs of kings, princes, poets, marshals, musicians, diplomatists, statesmen, artists, and men of letters of all nations.
 

Thơ tình Matthew Prior


BÀI ODE
 
Một thương gia đem tài sản giấu đi
Dưới một cái tên người khác
Về Euphelia – bài thơ tôi viết
Để giấu tình yêu thật với Cloe.
 
Những câu thơ dịu dàng nhất tôi viết
Mang tiếng là ca ngợi Euphelia
Còn với thần tượng của tôi – Cloe
Đáng ra phải chơi, đáng ra phải hát.
 
Tôi dành tặng bài thơ cho cả hai
Tôi kết hợp niềm vui cùng buồn tủi
Khi dành cho Euphelia lời khen ngợi
Tôi đắm chìm trong đôi mắt Cloe.
 
Nhưng vẻ u ám của Euphelia
Và sự xấu hổ làm Cloe đỏ mặt
Thần Vệ nữ nói với thần Cupid
Rằng chúng tôi không biết cách giả vờ.
 
An Ode
 
THE merchant, to secure his treasure,
Conveys it in a borrowed name:
Euphelia serves to grace my measure;
But Cloe is my real Flame.
 
My softest verse, my darling lyre
Upon Euphelia's toilet lay;
When Cloe noted her desire,
That I should sing, that I should play.
 
My lyre I tune, my voice I raise;
But with my numbers mix my sighs:
And whilst I sing Euphelia's praise,
I fix my soul on Cloe's eyes.
 
Fair Cloe blush'd: Euphelia frowned:
I sung and gazed: I played and trembled:
And Venus to the Loves around
Remarked, how ill we all dissembled.

 

 
CÔ GÁI TRUNG THỰC
 
Nàng: Ồ không, sự trinh tiết của em
Nếu không còn thì em đây sẽ chết.
Chàng: Tối qua em khóc lóc thảm thiết
Hoa hồng ơi, em có đau lắm không?
 
A True Maid
 
NO, no; for my virginity,
When I lose that, says Rose, I'll die:
Behind the elms last night, cried Dick,
Rose, were you not extremely sick?
 
 
THƠ TRÀO PHÚNG
 
Rằng mọi nhà thơ đều những kẻ đần
Tôi đồng ý, có thể là như thế
Nhưng có một điều trái với tự nhiên
Chắc gì bạn có thể làm thi sĩ?
 
Epigram - Yes, Every Poet Is A Fool
 
Yes, every poet is a fool;
By demonstration, Ned can show it:
Happy could Ned’s inverted rule
Prove every fool to be a poet.
 
 
VỀ CÁI CHẾT CỦA HALL
 
Hall tội nghiệp đã chết dưới mưa giông
Khi nửa đêm đợi cùng Nan gặp gỡ
Người không đến nhưng anh ta ở đó
Để trời mưa dập tắt ngọn lửa tình.
 
Bạn hãy ghi những dòng này vào vở
Nhớ chỉ làm tình ở nhà rồi đi ngủ.
 
An Epigram. On Hall’s Death 
 
Poor HALL caught his death standing under a spout,
Expecting till midnight when NAN would come out,
But fatal his patience, as cruel the Dame,
And curst was the Weather that quench’d the man’s flame.
 
Whooe’er though art, that read’st these moral lines,
Make love at home, and go to bed betimes.
 

Thơ tình Edward Dyer


GỬI PHILLIS, CÔ GÁI ĐẸP CHĂN CỪU
 
Thức dậy buổi bình minh
Khi tôi nhìn Phillis
Như con chim thức giấc
Trong buổi sớm mai hồng.
 
Nàng mỉm cưởi bước trên
Những bông hoa mùa xuân
Đàn cừu tung tăng bước
Theo bàn chân của nàng.
 
Nhưng nàng có trái tim
Như đá trong lồng ngực
Nàng không hề thương xót
Và cũng chẳng ban ơn.
 
Mặt trời hãy thức dậy
Ngọn lửa trong tim nàng
Và chim hãy hát lên
Sao cho nàng thương hại!
 
Những bông hoa hãy nói
Rằng sắc đẹp giết người
Nếu nàng không yêu tôi
Hãy nhìn tôi hấp hối.

 To Phillis, The Faire Sheeperdesse 

My Phillis hath the morninge Sunne,
at first to looke upon her:
And Phillis hath morne-waking birds,
her risinge still to honour.
 
My Phillis hath prime-featherd flowres,
that smile when she treads on them:
And Phillis hath a gallant flocke,
that leapes since she dooth owne them.
 
But Phillis hath too hard a hart,
alas, that she should have it:
It yeelds no mercie to desert,
nor grace to those that crave it.
 
Sweete Sunne, when thou look'st on,
pray her regard my moane!
Sweete birds, when you sing to her,
to yeeld some pitty, woo her!
 
Sweet flowers that she treads on,
tell her, her beauty deads one.
And if in life her love she nill agree me,
Pray her before I die, she will come see me.
 
 


SỰ MÂU THUẪN CỦA TÌNH YÊU
 
Hiếm khi nghe và hiếm khi nhìn thấy
Một điều gì không có trong tự nhiên
Giống như ngọn lửa suốt tháng quanh năm
Cứ rực cháy mà không cần đến củi.
 
Tôi từng thấy trường hợp rất lạ lùng
Một người hạnh phúc nhưng luôn đau khổ
Một người khác yêu lạ lùng hơn nữa
Sống trong tình mà như ở trong sương.
 
Có đầy đủ vẫn nghĩ mình thiếu thốn
Không tin rằng mình đã có tình yêu.
Tại sao tình cảm đã được lấp đầy
Mà vẫn cứ khát khao hoài dục vọng.

 Love-Contradictions 

As rare to hear as seldom to be seen,
It cannot be nor never yet hath been
That fire should burn with perfect heat and flame
Without some matter for to yield the same.
 
A stranger case yet true by prove I know
A man in joy that liveth still in woe:
A harder hap who hath his love at list
Yet lives in love as he all love had mist:
 
Who hath enough, yet thinks he lives without,
Lacking no love yet still he stands in doubt.
What discontent to live in such desire,
To have his will yet ever to require.
 
 


TÌNH KHIÊM TỐN
 
Cây dù thấp đến mấy luôn có ngọn
Con ruồi con kiến vẫn có nỗi buồn
Và có nọc độc ở những con ong
Những sợi tóc cũng cho ta chiếc bóng
Biển có nguồn, trước tình yêu bình đẳng
Dù bạn là vua hay kẻ ăn xin.
 
Nơi nước lặng là đáy sâu vô cùng
Có chuyển động mà mắt không nhận biết
Không cần nhiều lời để có lòng tin
Rùa không hát, còn trái tim chân thật
Không có lưỡi, chỉ có tai và mắt
Nghe, thấy, thở dài sau đó vỡ tung.

 A Modest Love 

The lowest trees have tops, the ant her gall,
The fly her spleen, the little sparks their heat;
The slender hairs cast shadows, though but small,
And bees have stings, although they be not great;
Seas have their source, and so have shallow springs;
And love is love, in beggars as in kings.
 
Where rivers smoothest run, deep are the fords;
The dial stirs, yet none perceives it move;
The firmest faith is in the fewest words;
The turtles cannot sing, and yet they love:
True hearts have eyes and ears, no tongues to speak;
They hear and see, and sigh, and then they break.


 

Thơ tình Richard Lovelace

  


GỬI LUCASTA NGÀY RA CHIẾN TRƯỜNG
 
Đừng nói rằng tôi người không tử tể
Khi bỏ đi từ tu viện linh thiêng
Của tình yêu em dịu dàng như thế
Để lao vào súng đạn của chiến tranh.
 
Vâng, quả thật bây giờ tôi theo đuổi
Kẻ địch của tôi trên bãi chiến trường
Và tôi ôm ấp một niềm tin mới
Bằng một thanh gươm, con ngựa, cái khiên.
 
Tôi thay đổi? Quả đúng là như thế
Nhưng mà tôi thay đổi cũng vì tình
Bởi nếu không giữ cho mình danh dự
Thì có khác nào tôi phản bội em.
 
To Lucasta, Going To The Wars
 
Tell me not (Sweet) I am unkind,
That from the nunnery
Of thy chaste breast and quiet mind
To war and arms I fly.
 
True, a new mistress now I chase,
The first foe in the field;
And with a stronger faith embrace
A sword, a horse, a shield.
 
Yet this inconstancy is such
As you too shall adore;
I could not love thee (Dear) so much,
Lov'd I not Honour more.
 
 


GỬI ALTHEA TỪ TRONG NHÀ TÙ
 
Khi trước cánh cổng nhà tù
Vị thần của Tình yêu bay đến
Và hiện ra trong yên lặng
Althea đứng trước mặt tôi
Tôi là tù nhân của đôi mắt này
Và mái tóc của em vàng óng
Thì những con chim giữa trời bay lượn
Không thể nào tự do được bằng tôi.
 
Khi chúng tôi uống những chén rượu nho
Nơi không có nước dòng Thêm tĩnh lặng
Khi vòng hoa kết trên đầu cẩn trọng
Thề với tình yêu chung thủy muôn đời
Khi nỗi buồn dìm trong rượu đầy vơi
Mong những điều tốt đẹp kia sẽ đến
Thì những con cá bơi trong vực thẳm
Không thể nào tự do được bằng tôi.
 
Khi tôi giống như con chim hồng tước
Đang hát về vị hoàng đế của tôi
Rằng hoàng đế của tôi thật tuyệt vời
Ngài nhân từ, uy nghiêm và trung thực
Vinh quang thay vị hoàng đế của tôi
Ngài vĩ đại bởi ngài đầy quyền lực
Thì những ngọn gió cuốn theo dòng nước
Không thể nào tự do được bằng tôi.
 
Những tường đá hay song sắt cũng chẳng
Trở thành nhà tù với bản thân tôi
Tôi vẫn luôn tự do ở nơi này
Nếu tự do là điều tôi mong muốn
Nếu tự do vẫn sống trong hồn tôi
Trong tình yêu ngây thơ và tĩnh lặng
Thì chỉ thiên thần trên trời bay lượn
May ra là tự do được bằng tôi.
 
To Althea, from Prison
 
When Love with unconfined wings
Hovers within my gates,
And my divine Althea brings
To whisper at the grates;
When I lie tangled in her hair,
And fetter'd to her eye,
The birds that wanton in the air
Know no such liberty.
 
When flowing cups run swiftly round
With no allaying Thames,
Our careless heads with roses bound,
Our hearts with loyal flames;
When thirsty grief in wine we steep,
When healths and draughts go free,
Fishes, that tipple in the deep,
Know no such liberty.
 
When (like committed linnets) I
With shriller throat shall sing
The sweetness, mercy, majesty,
And glories of my king;
When I shall voice aloud how good
He is, how great should be,
Enlarged winds, that curl the flood,
Know no such liberty.
 
Stone walls do not a prison make,
Nor iron bars a cage;
Minds innocent and quiet take
That for an hermitage;
If I have freedom in my love,
And in my soul am free,
Angels alone that soar above,
Enjoy such liberty.