Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Ý. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Ý. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2020

Thơ tình Giáo Hoàng John Paul II


Bức hoạ thành Rôm phần II - 
Theo sách "Sáng thế ký"

NGÀI (ĐỨC CHÚA TRỜI)

Ta sống, đi lại, hít thở bằng Ngài
Nhưng chẳng lẽ Ngài chỉ là Đức Chúa?
Ngài sáng tạo ra muôn loài, và sau đó
Ngài cho tất cả có hơi thở, cuộc đời
Bàn tay Ngài là trụ đỡ cho những ước mơ.
Ta là nòi giống của Ngài – cuộc đời của Chúa.
Giáo chủ trong dàn đồng ca đứng giữa
Cất giọng hát lên, những lời trong Kinh
Con người hồi tưởng trong buổi hoàng hôn:
"Nhìn thấy Đức Chúa Trời, và đó là tốt đẹp".

Tâm hồn trong đời sáng tỏ nhường kia
Đức Chúa Trời soi sáng cho tất cả
Khởi thuỷ là Lời – Lời mở ra cánh cửa
Ta bước vào – hít thở, sống và đi.

 On

«W Nim żyjemy, poruszamy się i jesteśmy».
Czy On jest tylko przestrzenią bytowania bytujących?
Jest Stwórcą.
Ogarnia wszystko stwarzając i podtrzymując w istnieniu —
Sprawia podobieństwo.
Gdy Paweł apostoł przemawia na Areopagu
wyraża się w jego słowach cała tradycja Przymierza.
Dzień każdy kończył się tam słowami:
«I widział Bóg, że było dobre».

Widział, odnajdywał ślad swojej Istoty —
Znajdował swój odblask we wszystkim co widzialne.
Przedwieczne Słowo jest jak gdyby progiem,
za którym żyjemy, poruszamy się i jesteśmy.


CON NGƯỜI (TÔI) 

Kêu lên trong sáng tạo của mình:
- "Hoan hô!"
Nhưng lịch sử trái ngược với ý muốn của ai?
Thế kỉ hai mươi thật vô cùng khiếp đảm!
Có thể chỉ là thế kỷ hai mươi?
Nhưng chân lý trăm năm không hạ mình tranh luận.
Và hình dáng, sự tương tự - của Ngài!

Người làm thuê của chân lý – thầy Buonarroti(1)
Suốt cả đời những gian phòng ở Vatican đã vẽ
Và chỉ mở cửa ra đi, ngôi nhà từ giã
Sau khi đã vẽ xong nhà thờ Sistina(2).

"Và Ngài đã tạo ra
Con người theo hình của Chúa
Ngài đã tạo ra
Đàn ông và phụ nữ
Ngài đã tạo ra họ.
Và cả hai đều trần truồng
Và không hề xấu hổ".
Và Đức Chúa Trời khi đó
Ngắm nhìn những gì Ngài đã tạo ra
Và nói: "Tất cả đều tốt đẹp cả mà!"

Không một sinh linh nào tránh khỏi con mắt Ngài
Trước mắt Ngài tất cả đều sáng tỏ.

Człowiek (Ja)

Dlaczego o tym właśnie jedynym dniu powiedziano:
«Widział Bóg, że wszystko, co uczynił, było bardzo dobre»?
Czy temu nie przeczą dzieje?
Choćby nasz wiek dwudziesty! I nie tylko dwudziesty!
A jednak żaden wiek nie może przesłonić prawdy
o obrazie i podobieństwie.

Michał Anioł
Z tą prawdą kiedyś zamknął się w Watykanie,
aby wyjść stamtąd, pozostawiając Kaplicę Sykstyńską.
«Stworzył więc Bóg człowieka na swój obraz,
na obraz Boży go stworzył,
mężczyzną i niewiastą stworzył ich.
Chociaż oboje byli nadzy,
nie doznawali wobec siebie wstydu»!
I widział Stwórca, że było bardzo dobre.
Czyż nie On właśnie widzi wszystko w całej prawdzie?
Omnia nuda et aperta ante oculos Eius —


SỰ PHÁN XÉT

Bảo tàng Sistina có bức tranh ngày phán xử
ở Capella(4) có toà án cho tất cả mọi người
Trong những con mắt đớn đau – cùng chung phận số
Điểm tận cùng là điểm kết đó thôi
Cứ như vậy, lần lượt những cuộc đời.

Non omnis morriar
Không, ta không chết bao giờ
Trong ta là cuộc sống
Đấy chỉ là phần xứng đáng
Đối diện với Ngài
Ngài đã tạo ra sự sống!
Đám đông trong bức tranh luống cuống.
Ngươi chưa quên chứ, Adam?
Ngài đã từng gọi:
- Con ở đâu rồi?
Và ngươi trả lời:
- Con sợ, con trần truồng
Con trốn vì điều ấy.
Ai nói rằng ngươi trần truồng?
Và ngươi đã trả lời, có nhớ?
- Ngài đã trao cho con người vợ
Và vợ con trao trái cấm cho con...

Đám đông chen chúc trong bức hoạ trên tường
Trước câu trả lời con người còng lưng xuống
Câu hỏi đã ghi, câu trả lời cũng đúng
Tất cả ra về theo một đường chung.

Sąd

W Kaplicy Sykstyńskiej artysta umieścił Sąd.
W tym wnętrzu Sąd dominuje nad wszystkim.
Oto kres niewidzialny stał się tutaj przejmująco widzialny.
Kres i zarazem szczyt przejrzystości — 
Taka jest droga pokoleń.

Non omnis moriar —  
To co we mnie niezniszczalne,
teraz staje twarzą w twarz z Tym, który Jest!
Tak zaludniła się ściana centralna sykstyńskiej polichromii.
Pamiętasz, Adamie? On na początku ciebie pytał «gdzie jesteś?»
A ty odrzekłeś: «Ukryłem się przed Tobą, bo jestem nagi».
«Któż ci powiedział, że jesteś nagi?»...
«Niewiasta, którą mi dałeś» podała mi owoc...

Ci wszyscy, którzy zaludniają ścianę centralną sykstyńskiej
polichromii,
niosą w sobie dziedzictwo twojej wówczas odpowiedzi!
Tego pytania i tej odpowiedzi!
Taki jest kres waszej drogi.
_____________________- 
*Bức hoạ thành Rôm là bài thơ dài gồm 3 phần, mỗi phần có nhiều mục. Chúng tôi chỉ trích dịch 3 mục của phần 2.
(1) Michelangelo Buonarroti (1475-1564) – nhà điêu khắc, hoạ sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ Italia.
(2) Sistina (Capella Sistina) – nhà thờ ở Vatican, nay là bảo tàng, nơi có những bức tranh nổi tiếng của Michelango Buonarroti
(4) Tháp chuông nhà thờ ở Vatican.


Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Thơ tình Eugenio Montale


XENIA*

1
Côn trùng dễ thương ơi, anh không biết
tại vì sao em lại gọi là ruồi
ngày hôm nay trời hầu như tối mịt
còn anh đọc quyển Deuteroisaia(1) phần hai
khi em lại hiện lên trước mặt anh đây
chỉ một điều em không đeo kính
nên em không thể nào nhìn ngắm
còn anh không thể thiếu kính này
để nhận ra em trong làn khói.

2
Không có râu ria, không có kính
không cánh bay, tội nghiệp quá em ơi
em chỉ bay trong giấc mộng mà thôi
bài hát cổ xưa trong Kinh Thánh
có quá ít điều thú vị và đêm đen
sấm chớp và sau đó mưa dông
không phải mưa dông, chẳng lẽ là em có thể
vội vàng ra đi
không nói năng một điều gì
dù anh vẫn nghĩ rằng đôi môi ngày ấy.

3
Khách sạn Saint James ở Pari anh cần thuê
phòng một người (họ không vui
khi khách đi lẻ), và thế rồi
ở khách sạn Bisanzio cũng thế
sau đó, khi đi tìm
cái phòng của những cô nhân viên điện thoại
là những người quen biết của em
thì đã không còn dây máy
khao khát có em
dù chỉ một cử chỉ, dù chỉ một thói quen.

4
Ta học theo cách, để sau khi chết hai ta
theo dấu này tìm ra nhau nhanh chóng.
Anh thử huýt gió lên với niềm hy vọng
rằng sự đã rồi, không biết rằng ta đã cõi hư vô.

5
Anh vẫn không hiểu rằng, có phải anh đã từng
là con chó trung thành của em đau ốm
và có phải em cũng vậy của anh.
Còn với những người khác em chỉ là côn trùng
bị đánh mất trong tiếng kêu rỉ rả
cao hơn thế gian. Trong sự giản dị
của những kẻ láu lỉnh, tinh ranh
rằng chúng chỉ là trò chơi trong tay em
trong bóng tối thấy rõ ràng không cần thêu dệt
với linh cảm của em chính xác
bằng sự định vị của chuột bay.

6
Em không nghĩ rằng sẽ để lại sau mình dấu vết
trong thơ văn mà em say đắm đã từng
chính vì thế mà sau này anh cảm thấy buồn nôn
chính vì thế mà anh sợ rằng em, sau đấy
quẳng anh vào nhóm các nhà thơ mới(2)
như cái đầm.


7
Lòng thương mình, đau đớn tận cùng và buồn chán
của người yêu đất đai và hy vọng
(ai dám nói rằng “thế giới khác”?
………………………………
“Lòng thương lạ lùng, kì quặc”(3) (Azucena, màn thứ hai).

8
Lời của em lảng bảng và khó khăn
những gì còn, cám ơn ngành bưu điện.
Nhưng bây giờ lời của em khó nhận
anh học cách phân biệt giọng nói của em
khi để ý lắng nghe tiếng tíc tắc của máy đánh tin
trong vòng khói bập bềnh của thuốc lá
từ Brissago(4).

9
Em có thể nhìn thấy bằng thính giác
tiền điện thoại sẽ giảm được rất nhiều.

10
“Cô ấy cầu nguyện không?” – “Vâng cô ấy cầu Thánh Antonio(5)
để tìm thấy chiếc ô mất và tìm thấy đồ
từ trong tủ của Thánh Ermete”
“chỉ thế thôi à?” – “Và cầu cho người đã chết
và cầu cho tôi”.
“Thế đủ rồi” – vị mục sư bảo thế.

11
Kí ức về tiếng khóc của em (gấp hai lần – của anh)
không che khuất tiếng cười xưa vui vẻ
có vẻ như báo trước ngày Tận thế
của riêng em, nhưng thật không may mắn, đã không thành.

12
Giống như con chuột chũi, rảo bước mùa xuân
anh đã không còn nghe em nói về chất độc
của thuốc kháng sinh, về nỗi đau thường xuyên trên cơ bắp
về sự may mắn, mà em yêu
không sưởi ấm được bao nhiêu.

Mùa xuân đến gần với những lớp sương mù
ngày dài hơn, và giờ không thể chịu
anh đã không còn nghe em đấu tranh với tiếng kêu ầm réo
của thời gian, của dấu hiệu không giải quyết được vấn đề
của mùa hè kia.

13
Bầy côn trùng từ trong đêm Strasburg
với dao chạm đi vào khe hở nhà thờ
Maison Rouge và chàng hầu bàn của em có tên là
Ruggero, hơi thọt chân và nhẹ nhàng, vui vẻ
còn Striggio, không rõ người ở đâu rất hay mổ
hắn bị người yêu phụ bạc – cô gái Thổ Nhĩ Kì
(mũi hắn đỏ lên vì xấu hổ
và nếu ai nhắc đến sự xấu hổ thì mặt hắn xéo đi vì
addition,(6) nhiều hơn trì hoãn không chịu nổi)
khi đó hiện ra trước mặt em những gì?
có thể chỉ vẩn vơ. Nhưng mà em chỉ nói
“Hãy uống thuốc ngủ vào” – là lời cuối
lời cuối cùng của em nói về anh.

14
Anh trai của em chết sớm, khi đó em
là cô gái tóc xù, rằng em đứng lặng
nhìn sang anh từ bức ảnh hình ôvan.
Anh ấy viết nhạc mà không ai nghe tiếng đàn
những bản nhạc này chưa in, giờ nằm trong tủ
hay thành giấy loại. Có thể là ai đó
viết lại những bản nhạc này mà không rõ
chúng đã từng được viết ra.
Dù chưa từng quen nhưng anh yêu anh ta
giờ về anh ấy, ngoài em, không ai còn nhớ
anh không đi tìm: bây giờ chuyện này vô bổ
sau em, anh là kẻ cuối cùng
nhớ về anh ấy. Nhưng anh ấy biết rằng
có thể yêu bóng hình, bởi ta cũng là chiếc bóng.

15
Người ta vẫn nói rằng thơ anh
không của ai, không thuộc về ai cả
nhưng đã từng của em, thì nghĩa là tất cả
là của em, bởi em không còn là bản chất, mà chỉ bóng hình.
Người ta nói rằng thơ ca trong mức độ của mình
vượt trội hơn tất cả
không thừa nhận rằng tia chớp lửa
có thể chậm hơn những chú rùa.
Chỉ em biết rằng sự chuyển động
không khác gì sự đứng yên
rằng trống rỗng là đầy, rằng tĩnh lặng
bầu trời trong – vẻ phổ biến của mây.
còn anh hiểu hơn về con đường dài
qua ngục tù thạch cao và vải gạc
nhưng không mang đến cho anh vẻ lặng yên, tĩnh mịch
rằng anh hoà nhập với em, dù một hoặc hai người.
__________

*Tập thơ “Xenia” là những kỉ niệm của Eugenio Montale về người vợ đã mất. “Xenia” – tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là chùm thơ nhỏ.
(1) Sách tiên tri Ê-sai trong Kinh Cựu Ước.
(2) Các nhà thơ mới “neoteroi” – nhóm các nhà thơ La Mã thế kỉ I tr. CN, người nổi tiếng nhất là Gaius Valerius Catullus (87-54 tr. CN).
(3) “Lòng thương lạ lùng kì quặc”- lời cô gái Digan Azuccena, màn thứ hai trong một vở Opera của Giuseppe Verdi (1813-1901).
(4) Tên một loại thuốc lá và là địa danh ở Thuỵ Sĩ.
(5) Theo truyền thuyết Thánh Antonio giúp tìm ra đồ bị thất lạc.
(6) Addition – sự thêm vào (tiếng Anh). Trong thơ của mình, đặc biệt là ở giai đoạn sau Eugenio Montale rất hay sử dụng tiếng Anh trong những bài thơ viết bằng tiếng Italia.


XENIA

1
Caro piccolo insetto
che chiamavano mosca non so perche,
stasera quasi al buio
mentre leggevo il Deuteroisaia
sei ricomparsa accanto a me,
ma non avevi occhiali,
non potevi vedermi
ne potevo io senza quel luccichio
riconoscere te nella foschia.

2
Senza occhiali, ne antenne,
povero insetto, che ali
avevi solo nella fantasia,
una bibbia sfasciata ed anche poco
attendibile, il nero della notte,
un lampo, un tuono e poi
neppure la tempesta. Forse che
te n'eri andata cosi presto senza
parlare? Ma e ridicolo
pensare che tu avessi ancora labbra

3
Аl Saint James di Parigi dovro chiedere
una camera 'singola' (non amano
i clienti spaiati). E cosi pure
nella falsa Bisanzio del tuo albergo
veneziano; per poi cercare subito
lo sgabuzzino delle telefoniste,
le tue amiche di sempre; e ripartire,
esaurita la carica meccanica,
il desiderio di riaverti, fosse
pure in un solo gesto o un'abitudine.

4
Аvevamo studiato per l'aldila
un fischio, un segno di riconoscimento.
Mi provo a modularlo nella speranza
che tutti siamo gia morti senza saperlo.

5
Non ho mai capito se io fossi
il tuo cane fedele e incimurrito
o tu lo fossi per me.
Per gli altri no, eri un insetto miope
smarrito nel blabla
dell'alta societa. Erano ingenui
quei furbi e non sapevano
di essere loro il tuo zimbello:
di esser visti anche al buio e smascherati
da un tuo senso infallibile, dal tuo
radar di pipistrello.

6
Non hai pensato mai di lasciar traccia
di te scrivendo prosa o versi. E fu
il tuo incanto - e dopo la mia nausea di me.
Fu pure il mio terrore: di esser poi
ricacciato da te nel gracidante
limo dei neoteroi.

7
Pieta di se, infinita pena e angoscia
di chi adora il quaggiu e spera e dispera
di un altro... (Chi osa dire un altro mondo?).
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
':Strana pieta...' (Azucena, atto secondo).

8
La tua parola cosi stenta e imprudente
resta la sola da cui mi appago.
Ma e mutato l'accento, altro il colore.
Mi abituero a sentirti o a decifrarti
nel ticchettio della telescrivente,
nel volubile fomo dei miei sigari
di Brissago.

9
Ascoltare era il solo tuo modo di vedere.
Il conto del'telefono s'e ridotto a ben poco

10
"Pregava?". "Si, pregava Sant'Antonio
perche fa ritrovare
gli ombrelli smarriti e altri oggetti
del guardaroba di Sant'Ermete".
"Per questo solo?". "Anche per i suoi morti
e per me".
"E sufficiente" disse il prete.

11
Ricordare il tuo pianto (il mio era doppio)
non vale a spegner lo scoppio delle tue risate,
Erano come l'anticipo di un tuo privato
Giudizio Universale, mai accaduto purtroppo.

12
La primavera sbuca col suo passo di talpa.
Non ti sentiro piu parlare di antibiotici
Velenosi, del chiodo del tuo femore,
dei beni di fortuna che t'ha un occhiuto omissis
spennacchiati.

La primavera avanza con le sue nebbie grasse,
Con le sue luci lunghe, le sue ore insopportabili.
Non ti sentiro piu lottare col rigurgito
del tempo, dei fantasmi, dei problemi logistici
dell' Estate.

13
Il grillo di Strasburgo notturno col suo trapano
in una crepa della cattedrale;
la Maison Rouge e il barman tuo instillatore di basco,
Ruggero zoppicante e un poco alticcio;
Striggio d'incerta patria, beccatore
Di notizie e antipasti, tradito da una turca
(arribinato il naso di pudore
ove ne fosse cenno, occhio distorto
da non piu differibile addition)
ti riapparvero allora? Forse nugae
anche minori. Ma tu dicesti solo
"prendi il sonnifero", l'ultima
tua parola - e per me.

14
Tuo fratello mori giovane, tu eri
La bimba scarrufata che mi guarda
'in posa' nell'ovale di un ritratto.
Scrisse musiche inedite, inaudite,
Oggi sepolte in un baule o andate
Al macero. Forse le riinventa
Qualcuno inconsapevole,
se cio ch'e scritto e scritto.
L'amavo senza averlo conosciuto.
Fuori di te nessuno lo ricordava.
Non ho fatto ricerche: ora e inutile.
Dopo di te sono rimasto il solo
per cui egli e esistito. Ma e possibile,
lo sai, amare un ombra, ombre noi stessi.

15
Dicono che la mia
sia una poesia d'innapartenenza.
Ma s'era tua, era di qualcuno,
di te, che non sei piu forma, ma essenza.
Dicono che la poesia al suo culmine
magnifica il Tutto in fuga
negano, che la testuggine
sia piu veloce di un fulmine.
Tu sola sapevi, che il moto
non e diverso dalla stasi,
che il vuoto e il pieno e il sereno
e la piu diffusa delle nubi.
Cosi meglio intendo il tuo lungo viaggio
Impriggionata tra le bende e le gessi.
Eppure non mi da riposo
sapere che in uno o in due noi siamo una sola cosa.

Thơ tình Salvatore Quasimodo


MÀU MƯA VÀ RỈ SẮT

Ngươi nói rằng: sự im lặng, cái chết, sự cô đơn
cũng như người ta nói tình yêu và cuộc sống
đó là những lời trung chuyển.
Và ngọn gió mỗi buổi sáng rung lên
và màu mưa, rỉ sắt của thời gian
mang về trên đá
trên những lời nguyền rủa
đến sự thật hãy còn quá xa xôi.
Thì hãy nói cho ta nghe, con người
con người bị đóng đinh trên thập ác
và ngươi - đôi bàn tay máu còn dính chặt
ta biết trả lời làm sao những câu hỏi này?
và giờ đây
trước khi sự im lặng ùa vào đôi mắt
trước khi ngọn gió mới lại rung lên, và rỉ sắt
lại dâng đầy.

Colore di pioggia e di ferro

Dicevi: morte silenzio solitudine;
come amore, vita. Parole
delle nostre provvisorie immagini.
E il vento s'e levato leggero ogni mattina
e il tempo colore di pioggia e di ferro
ё passato sulle pietre,
sul nostro chiuso ronzio di maledetti.
Ancora la verita ё lontana.
E dimmi, uomo spaccato sulla croce,
e tu dalle mani grosse di sangue,
come rispondero a quelli che domandano?
Ora, ora: prima che altro silenzio
entri negli occhi, prima che altro vento
saiga e altra ruggine fiorisca.


TUYẾT

Ngọn gió cúi xuống, chia tay với các ngươi
những bóng hình yêu quí của đất đai – cây cối
con người, súc vật
trùm lên những chiếc áo khoác
những bà mẹ không biết làm sao khóc lên
và như trăng, tuyết chiếu sáng cho ta từ những cánh đồng.
Ôi những linh hồn chết trong con tim gõ nhịp.
Dù cho ai đấy phá vỡ sự lặng im bằng tiếng khóc nức nở của mình,
như áo quan, màu tuyết trắng khắp nơi như màu chết.

Neve

Scende la sera: ancora ci lasciate
immagini care della terra, alberi,
animali, povera gente chiusa    
dentro i mantelli dei soldati, madri dal
ventre inaridito dalle lacrime. E la neve
ci illumina dai prati come luna. Oh
questi morti. Battete sulla fronte,
battete fino al cuore. Che urli almeno
qualcuno nel silenzio, in questo cerchio
bianco di sepolti.


TRÊN NHỮNG RẶNG LIỄU

Chẳng lẽ ta có thể hát lên dưới gót dày
của ngoại bang, khi mà trên những quảng
trường mùa đông chất đầy xác chết
đã nhiều ngày, và con tim tan nát
vì không im tiếng khóc, tiếng nức nở của
những mẹ già có những đứa con trai bị treo
trên dây thép? Lúc này ta phải hát làm sao?
Trên những rặng liễu, giữa đồng hoang và
những cây đàn của ta nhẹ tênh, đung đưa
trong ngọn gió giá băng vô cùng buồn bã.

Alle fronde dei salici

Е come potevamo noi cantare con il
piede straniero sopra il cuore, fra i
morti abbandonati nelle piazze sull'erba
dura di ghiaccio, al lamento d'agnello
dei fanciulli, all'urlo nero della madre
che andava incontro al figlio crocifisso
sul palo del telegrafo? Alle fronde dei
salici, per voto, anche le nostre cetre
erano appese, oscillavano lievi al triste
vento.


HÒN ĐẢO ODYSSEY

Giọng nói cổ xưa quyết đoán
Và anh nghe theo tiếng vọng phù du
Cùng sự lãng quên đêm vắng
Giữa vực thẳm sao trời.

Từ ngọn lửa trời xanh
Hòn đảo Odyssey xuất hiện
Cây cối, bầu trời bơi trong đêm yên tĩnh
ở giữa bờ sông trăng.

Em yêu ơi, những con ong mang đến cho ta vàng
Thời gian âm thầm biến đổi.

Isola di Ulisse

Ferma è l'antica voce.
Odo risonanze effimere,
oblio di piena notte
nell'acqua stellata.

Dal fuoco celeste
nasce l'isola di Ulisse.
Fiumi lenti portano alberi e cieli
nel rombo di rive lunari.

Le api, amata, ci recano l'oro:
tempo delle mutazioni, segreto.


ANH CÓ MẤT MÁT GÌ ĐÂU

Anh vẫn ở đây, mặt trời vẫn quay vòng
ở sau lưng, như con đại bàng và đất
giọng của anh lặp lại ở trong em. 
và cái nhìn của thời gian tiếp tục
trong đôi mắt mở ra sự khởi đầu.
mà anh thì có mất mát gì đâu
mất mát, nghĩa là ta bước đến
giới hạn của bầu trời
dòng ước mơ và dòng sông trôi
đầy lá rụng. 

Non ho perduto nulla

Sono ancora qui, il sole gira
alle spalle come un falco e la terra
ripete la mia voce nella tua.
E ricomincia il tempo visibile
nell’occhio che riscopre la luce.
Non ho perduto nulla.
Perdere è andare di là
da un diagramma del cielo
lungo movimenti di sogni, un fiume
pieno di foglie.

Thơ tình Giosuè Carducci


MÙA ĐÔNG BUỒN CHÁN

Có thể một thưở đã từng
mặt trời chiếu trên trái đất
hoa tím, hoa hồng khoe sắc
nụ cười, say đắm, nồng nàn?

Có thể một thưở đã từng
thời tuổi thanh xuân da diết
từng có vinh quang, sắc đẹp
tình yêu, đức hạnh, lòng tin?

Có thể một thưở đã từng
thời Homer, Valmiki* sống
nhưng biết làm sao so sánh
mặt trời ngày đó đã tàn. 

Còn tôi giấu trong màn sương
mùa đông chỉ còn gió rét
thế giới tro tàn đã chết
có thể ngày ấy đã từng. 
_____________

*Homer (sống vào khoảng thế kỷ VIII tr. CN) – nhà thơ Hy Lạp cổ đại, tác giả của Iliat và Odyssey. Valmiki (sống vào khoảng thế ký V – IV tr. CN) – nhà thơ Ấn Độ cổ đại, tác giả của thiên sử thi Ramayana. 

Tedio Invernale

Ma ci fu dunque un giorno
su questa, terra il sole?
Ci fųr rose e viole,
luce, sorriso, ardor?

Ma ci fu dunque un giorno
la dolce giovinezza
la gloria e la bellezza
fede, virtude, amor?

Ciō forse avvenne ai tempi
d'Omero e di Valmichi,
ma quei son tempi antichi,
il sole or non č pių.

E questa ov'io m'avvolgo
nebbia di verno immondo
č cenere d'un mondo
che forse un giorno fu.


ĐÊM ĐÔNG

Về phía trước, tuyết như là ánh sáng
Lấp lánh trên đồi và trải dài ra
Xào xạc dưới chân, hơi thở của ta
Như hơi nước chạy vào trong gió thoảng. 

Tất cả lặng im. Giữa trời thanh vắng
Mây lặng ngừng, trăng như kẻ tuần tra
Bơi giữa một màu trắng đục nhạt nhòa
Dùng bóng cây thông làm nơi trú ẩn. 

Không đường nét, kinh hoàng như ý tưởng
Cái chết ước mong vây bủa quanh ta
Rồi tan ra, lơ lửng với sương mù

Và nảy sinh ý nghĩ về những sóng
Hướng trời kêu: ôi băng giá, đêm đông
Giờ trong mồ tìm đâu ra ngày tháng?

Notte d’inverno 

Innanzi, innanzi. Per le foscheggianti
Coste la neve ugual luce e si stende,
E cede e stride sotto il piè: d'avanti
Vapora il sospir mio che l'aer fende. 

Ogni altro tace. Corre tra le stanti
Nubi la luna su 'l gran bianco e orrende
L'ombre disegna di quel pin che tende
Cruccioso al suolo informe i rami infranti, 

Come pensier di morte desiosi.
Cingimi, o bruma, e gela de l'interno
Senso i frangenti che tempestan forti; 

Ed emerge il pensier su quei marosi
Naufrago, ed al ciel grida: O notte, o inverno,
Che fanno giù ne le lor tombe i morti?


Ở VÙNG TERME DI CARACALLA 

Những đám mây đen bay qua Aventino, Celio
ngọn gió buồn từ đồng bằng mang hơi ẩm
đằng xa – những ngọn đồi Albani
đứng trong tuyết trắng.

Dưới màu tro của tấm khăn voan
dâng lên màu xanh, cô gái người Anh tìm trong sách
những cuộc tranh luận của thời xa lắc
và bầu trời với những viên đá thành Rôm.

Bầy quạ đen không ngừng tiếng kêu vang
quạ bay giữa trời như có vẻ
tiếng gọi của ai nghe rất dữ
và to lớn vô cùng.

Người khổng lồ cổ đại mơ tưởng, than phiền
bầy yêu tinh – với trời xanh tranh luận?
Từ Laterano nghiêm trang đổ xuống
một hồi chuông.

Kẻ lười biếng quấn vào chiếc áo choàng
miệng huýt gió, không nhìn ai hết
bây giờ ta gọi ngươi, bệnh sốt rét
ở đây, ngươi là thiên thần.

Nếu động đến ngươi giọt nước mắt tuyệt trần
và lời van xin của nhiều bà mẹ
chùi nước mắt cho bầy con trẻ
cúi mình xuống nhọc nhằn

để chạm đến Palazio vinh quang
cái bàn thờ xưa (ngọn đồi evandrio
Tebro trong buổi chiều vật vờ
khắp Campidoglio 

hoặc Aventino, rồi trở về
ngắm quảng trường dưới mặt trời đầy nắng
và hát trong im lặng
bài ca Saturino). 

Bệnh sốt rét, ngươi hãy xua đi
những kẻ mới đến với những gì nhỏ nhắn
điều khủng khiếp này, xin hãy kính trọng
thiên thần đang ngủ của thành Rôm

ở Palatino – kiêu hãnh ngẩng đầu lên
ở Aventino, Celio buông tay xuống
từ Capena đến Appia con đường lớn
giũ sạch bờ vai.
______________
* Terme di Caracalla – là một khu phức hợp giải trí công cộng gồm có nhà tắm nóng lạnh, bể bơi, phòng tập luyện, quán café… với diện tích hàng chục hécta được xây dựng ở La Mã cổ đại trong các năm 212 – 217 và mang tên của Hoàng đế Caracalla. Ngày nay, đống tro tàn của khu vực này là một điểm du lịch nổi tiếng thu hút khách từ khắp nơi trên thế giới. Nhà thơ đưa ra những suy ngẫm của mình khi đứng trước thắng cảnh, điểm du lịch nổi tiếng này. 

Dinanzi Alle Terme di Caracalla

Corron tra ’l Celio fósche e l’Aventino
le nubi: il vento dal pian tristo move
umido: in fondo stanno i monti albani
bianchi di neve.

A le cineree trecce alzato il velo
verde, nel libro una britanna cerca
queste minacce di romane mura
al cielo e al tempo.

Continui, densi, neri, crocidanti
versansi i corvi come fluttuando
contro i due muri ch’a piú ardua sfida
levansi enormi.

“Vecchi giganti, - par che insista irato
l’augure stormo - a che tentate il cielo?„
Grave per l’aure vien da Laterano
suon di campane.

Ed un ciociaro, nel mantello avvolto,
grave fischiando tra la folta barba,
passa e non guarda. Febbre, io qui t’invoco,
nume presente.

Se ti fûr cari i grandi occhi piangenti
e de le madri le protese braccia
te deprecanti, o dea, da ’l reclinato
capo de i figli:

se ti fu cara su ’l Palazio eccelso
l’ara vetusta (ancor lambiva il Tebro
l’evandrio colle, e veleggiando a sera
tra ’l Campidoglio

e l’Aventino il reduce quirite
guardava in alto la città quadrata
dal sole arrisa, e mormorava un lento
saturnio carme);

Febbre, m’ascolta. Gli uomini novelli
quinci respingi e lor picciole cose:
religïoso è questo orror: la dea
Roma qui dorme.

Poggiata il capo al Palatino augusto,
tra ’l Celio aperte e l’Aventin le braccia,
per la Capena i forti ómeri stende
a l’Appia via.