Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Thơ tình Vicente Aleixandre


SỰ THỐNG NHẤT TRONG EM

Hạnh phúc tuôn chảy xuống tay anh
trong gương mặt của em cuộc đời đầy ắp
nơi bay liệng những con chim không thể nào bắt được
bay về nơi không một thứ gì quên.

Thân thể của người yêu, hồng ngọc, kim cương
tia nắng mặt trời trong vòng tay ôm ấp
bay vào trong những lời làm phép thuật
những lời bùa phép của răng.

Bởi vì anh muốn chết nên anh lao vào em
bởi vì anh muốn được hồi sinh trong lửa
vì không khí anh không cần, anh không biết thở
chỉ đám cháy lửa bừng
trong vực đốt môi anh.

Em đừng lấy tay che mặt
đừng đốt đam mê của cuộc đời mình
hãy cho anh nhìn vào nơi dịu dàng, sâu thẳm nhất
nơi đó, khi chết rồi anh muôn thuở hồi sinh.

Tình yêu hay là chết, nhưng khi yêu anh muốn
anh muốn chết, muốn trở thành máu thịt của em
thành tầng lò thu hẹp trong thân thể ấm nồng
cuồn cuộn dưới da, ở bên rìa cuộc sống.

Nụ hôn trên bờ môi em như kéo dài, đau đớn
như gương nước biển sôi lên
như đôi cánh vẫy vùng
những ngón tay trên làn da ve vuốt
và ánh sáng trên mái tóc dương dương tự đắc
ánh sáng hay là con dao trên cổ của anh
con dao đã không thể nào chia cắt
sự thống nhất của thế giới chúng mình.
1934

Unidad en ella

Cuerpo feliz que fluye entre mis manos,
rostro amado donde contemplo el mundo,
donde graciosos pájaros se copian fugitivos,
volando a la región donde nada se olvida.

Tu forma externa, diamante o rubí duro,
brillo de un sol que entre mis manos deslumbra,
cráter que me convoca con su música íntima, con esa
indescifrable llamada de tus dientes.

Muero porque me arrojo, porque quiero morir,
porque quiero vivir en el fuego, porque este aire de fuera
no es mío, sino el caliente aliento
que si me acerco quema y dora mis labios desde un fondo.

Deja, deja que mire, teñido del amor,
enrojecido el rostro por tu purpúrea vida,
deja que mire el hondo clamor de tus entrañas
donde muero y renuncio a vivir para siempre.

Quiero amor o la muerte, quiero morir del todo,
quiero ser tú, tu sangre, esa lava rugiente
que regando encerrada bellos miembros extremos
siente así los hermosos límites de la vida.

Este beso en tus labios como una lenta espina,
como un mar que voló hecho un espejo,
como el brillo de un ala,
es todavía unas manos, un repasar de tu crujiente pelo,
un crepitar de la luz vengadora,
luz o espada mortal que sobre mi cuello amenaza,
pero que nunca podrá destruir la unidad de este mundo.


GIẤC MƠ

Có những giây phút cô đơn
Khi con tim lặng im, bỗng nhiên hiểu rằng không yêu nữa.
Lấy sức đứng dậy: nhìn buổi sáng tối tăm.
Còn trên giường em, có ai đấy đang say sưa ngủ.
Có thể là em… nhưng mà không: em thơ thẩn trong phòng
Buồn bã, lặng im. Mưa rơi ngoài cửa sổ.
Bình minh sương mờ. Đến đó đã cô đơn!
Em ngó nhìn. Quần áo treo trong phòng
Bầu trời nặng nề, nước rơi, và căn phòng nhỏ
Giữa bình minh xám ngắt ngoài cửa sổ.

Em ngồi im, cúi đầu xuống bàn tay
Tay chống lên bàn. Ghế không kêu cót két.
Chỉ nghe ra đều đều hơi thở của ai
Của ai đó rất dịu dàng, xinh đẹp
Quên trên giường giấc mộng về em, tình yêu đã chết
Còn em – chỉ là giấc mộng của người.
1954

El sueño

Hay momentos de soledad en que el corazón reconoce, atónito, que no ama.
Acabamos de incorporarnos, cansados: el día oscuro.
Alguien duerme, inocente, todavía sobre ese lecho.
Pero quizá nosotros dormimos...        
Ah, no: nos movemos.
Y estamos tristes, callados. La lluvia, allí insiste.
Mañana de bruma lenta, impiadosa. ¡Cuán solos!
Miramos por los cristales. Las ropas, caídas;
el aire, pesado; el agua, sonando. Y el cuarto,
helado en este duro invierno que, fuera, es distinto.
    
Así te quedas callado, tu rostro en tu palma.
Tu codo sobre la mesa. La silla, en silencio.
Y sólo suena el pausado respiro de alguien,
de aquella que allí, serena, bellísima, duerme
y sueña que no la quieres, y tú eres su sueño.


NGÀY NỬA ĐÊM

Tuổi trẻ của ta, ngươi từng là nữ hoàng
Quả thật, không lâu. Từng yêu phương Bắc
Hoa hồng từ trường. Hoa của gió. Bước ngoặt
Ô, giữa ngày yêu thương.

Yêu vực thẳm. Ngọn gió diều hâu. Lông hồng
Yêu nửa đêm. Những ngôi sao trong vực.

Ngọn lửa sâu của tinh cầu xanh biếc
Ngôi sao giữa đại dương. Con cá nói trên trời
Ngươi giẫm lên những chòm sao, yêu bầu trời
Khi ngủ trong mây, khi ngủ say trong vực
Đổ xuống như thác, với bọt nước mỉm cười.

Yêu sự hài hòa trong sự hỗn mang
Khi bay lên trời, khi lao xuống vực
Ô, sự vẹn toàn không chia cách
Ngày, trong tình yêu, cứ ngỡ là đêm!
1968

Canción del día noche

Mi juventud fue reina.
Por un día siquiera. Se enamoró de un Norte.
Brújula de la Rosa. De los vientos. Girando.
Se enamoró de un día.

Se fue, reina en las aguas. Azor del aire.Pluma.
Se enamoró de noche. Bajo la mar, las luces.

Todas las hondas luces de luceros hondísimos.
En el abismo estrellas. Como los peces altos.
Se enamoró del cielo, donde pisaba luces.
Y reposó en los vientos, mientras durmió en las olas.

Mientras cayó en cascada, y sonrió,en espumas.
Se enamoró de un orden. Y subvertió sus gradas.
Y si ascendió al abismo, se despeñó a los cielos.
Ay, unidad del día en que, en amor, fue noche.


NHÀ THƠ HỒI TƯỞNG CUỘC ĐỜI MÌNH

Chết, ngủ. Ngủ, có thể chỉ là mơ?
Hamlet.

Cả đời anh thấy những giấc mơ
Còn ngủ – là không sống. Cuộc đời cho thiên hạ
Sống – là không thở bằng những lời buồn bã
Những lời vẫn sống quanh ta.
Sống trong lời? Nhưng lời không muôn thuở
Tiếng động ngọt ngào nhưng sẽ mất đi
Như đêm trăng này. Như bình minh xa
Như ngày gom những tia nắng cuối
Đập vào mắt ta.
Hãy cứ để ngày hôn em khi khép bờ mi lại
Em hãy ngủ.
Đêm rất dài, nhưng đêm đã đi qua.
1972

El poeta se acuerda de su vida

To die, to sleep; To sleep: perchance to dream?
Hamlet.

Perdonadme: he dormido.
Y dormir no es vivir. Paz a los hombres.
Vivir no es suspirar o presentir palabras que aún nos vivan.
¿Vivir en ellas? Las palabras mueren.
Bellas son al sonar, mas nunca duran.
Así esta noche clara. Ayer cuando la aurora
o cuando el día cumplido estira el rayo
final, ya en tu rostro acaso.
Con tu pincel de luz cierra tus ojos.
Duerme.
La noche es larga,
pero ya ha pasado.


TÔI VIẾT ĐỂ CHO AI?

Tôi viết để cho ai? Đôi khi một nhà báo, phóng viên
hoặc một người nào đấy vì tò mò đã hỏi tôi như vậy.

Dĩ nhiên là tôi không phải viết cho ông chủ
với quần áo bảnh bao, với mày râu giận dữ
và những ngón tay chỉ trỏ giữa sóng nhạc buồn. 

Tôi cũng coi khinh những cỗ xe sang trọng, đắt tiền
(mà bên trong là quí bà đeo kính, mặt lạnh như băng
và thái độ khinh khỉnh, coi người như cỏ rác).

Tôi viết, có lẽ, cho những người mà thơ tôi không đọc.
Chẳng hạn như người phụ nữ chạy trên phố vội vàng
tựa như sợ mình sẽ chậm để mở cửa cho ánh bình minh. 

Hoặc viết cho ông cụ già đang ngồi chơi trên ghế đá
mà không hề để ý rằng ánh mặt trời buổi hoàng hôn
đang âu yếm ve vãn ông bằng tia sáng của mình. 

Tôi viết cho tất cả những người không phải là bạn đọc
không quan tâm, nhưng họ vẫn cần tôi
mặc dù tôi là ai họ không cần biết.

Tôi viết cho cô gái khi đi trên đường đã đưa mắt nhìn tôi
bởi chúng tôi là những người đồng hành giữa cuộc đời này. 

Tôi viết cho bà cụ già đang ngồi bên ngưỡng cửa
người đã sinh ra bao cuộc đời, bàn tay đã run run.

Tôi viết cho những kẻ đang yêu, những kẻ qua đường
những người mà trong đôi mắt luôn có một nỗi buồn
và cho những người thậm chí không thèm nhìn ai hết
tôi viết cho người đột ngột ngã lăn đùng ra chết
vì ông đã gọi chúng ta mà ta chẳng nghe thấy lời ông. 

Tôi viết cho tất cả. Nhưng trước hết, xin nhắc lại rằng –
tôi viết cho những người mà thơ tôi không đọc.
tôi viết cho từng người riêng lẻ, cho cả đám đông
cho những bờ môi, cho những đôi tai, cho những trái tim
mà có thể không nghe tôi nhưng lời của tôi thì nghe được.

¿Para quién escribo?

¿Para quién escribo?, me preguntaba el cronista, el periodista
o simplemente el curioso.

No escribo para el señor de la estirada chaqueta, ni para su bigote
enfadado, ni siquiera para su alzado índice
admonitorio entre las tristes ondas de música.

Tampoco para el carruaje, ni para su ocultada señora
(entre vidrios, como un rayo frío, el brillo de los
impertinentes).

Escribo acaso para los que no me leen. Esa mujer que
corre por la calle como si fuera a abrir las puertas
a la aurora.

O ese viejo que se aduerme en el banco de esa plaza
chiquita, mientras el sol poniente con amor le toma,
le rodea y le deslíe suavemente en sus luces.

Para todos los que no me leen, los que no se cuidan de
mí, pero de mí se cuidan (aunque me ignoren).

Esa niña que al pasar me mira, compañera de mi
ventura, viviendo en el mundo.

Y esa vieja que sentada a su puerta ha visto vida,
paridora de muchas vidas, y manos cansadas.

Escribo para el enamorado; para el que pasó con su
angustia en los ojos; para el que le oyó; para el que
al pasar no miró; para el que finalmente cayó cuando
preguntó y no le oyeron.

Para todos escribo. Para los que no me leen sobre todo
escribo. Uno a uno, y la muchedumbre. Y para los
pechos y para las bocas y para los oídos donde, sin
oírme, está mi palabra.


Thơ tình Rafael Alberti


NGƯỜI BỊ THƯƠNG

– Hãy tặng anh chiếc khăn nào, em gái
Để anh đem buộc vết thương…

– Em biết chọn cho anh khăn nào vậy
Màu nghệ tây hay màu hồng?

– Màu nào cũng được. Ngực anh máu đỏ.
Máu thành tia đang chảy xuống tay anh.
Nhưng con tim của mình, em hãy nhớ
Đem thêu vào từng góc của trái tim.

El herido

—Dame, tu pañuelo, hermana,
que vengo muy mal herido.

—Dime qué pañuelo quieres,
si el rosa o color de olivo.

—Quiero un pañuelo bordado,
que tenga en sus cuatro picos
tu corazón dibujado.

Sông Tiber (Tivere) ở Roma

KHI TÔI RỜI LA MÃ

Khi tôi rời La Mã
Ai còn nhớ đến tôi?

Hãy hỏi về điều này
Những chó hoang đi lạc
Những con mèo lắt lay
Và cả đôi giày rách.

Bạn hãy hỏi để biết
Những con quạ ngồi không
Những con mèo đã chết
Và cửa sổ đóng băng.

Bạn hãy hỏi ngọn gió –
Là hàng xóm của tôi
Và hỏi những nhà cửa
Không hề có trên đời

Hãy hỏi sông Tiber
Đang viết rất vất vả
Những bút danh của tôi
Dưới mỗi cây cầu đó.

Khi tôi rời La Mã
Hãy hỏi chúng về tôi.

Cuando me vaya de Roma

Cuando me vaya de Roma,
¿quién se acordará de mí?

Pregunten al gato,
pregunten al perro
y al roto zapato.

Al farol perdido,
al caballo muerto
y al balcón herido.

Al viento que pasa,
al portón oscuro
que no tiene casa.

Y al agua corriente
que escribe mi nombre
debajo del puente.

Cuando me vaya de Roma
pregunten a ellos por mí. 


FEDERICO

Federico.
Tôi đi trên phố Pinar
Tìm ngôi nhà anh ở.
Đến nơi tôi gõ cửa.
Nhưng anh chẳng có nhà.

Federico.
Anh cười như mọi người.
Anh tìm ra những lời
Không ai tìm thấy cả.
Tôi đến nơi anh ở.
Mà anh chẳng có nhà.

Federico.
Giờ bên sông Aniene
Cây của anh tươi tốt.
Tôi và ngọn gió hát
Về anh, anh có nghe.

Federico

Federico.
Voy por la calle del Pinar
para verte en la Residencia.
Llamo a la puerta de tu cuarto.
Tú no estás.

Federico.
Tú te reías como nadie.
Decías tú todas tus cosas
como ya nadie las dirá.
Voy a verte a la Residencia.
Tú no estás.

Federico.
Por estos montes del Aniene,
tus olivos trepando van.
Llamo a sus ramas con el aire.
Tú sí estás.
  

ROMA, NGUY HIỂM CHO NGƯỜI ĐI BỘ

Đừng ngắm nhìn di tích ở Roma
Khi bạn đến Roma mà đi bộ
Cần cả trăm đôi mắt mở thật to
Bạn là nô lệ ở trên đường phố.

Đừng ngắm nhìn vẻ đẹp bao kỳ quan
Bao cung điện, mái vòm, đài phun nước
Đang chờ bạn cả hàng ngàn cái chết
Nếu bạn thờ ơ, cái chết rất gần.

Nhìn phải trái nếu bạn muốn qua đường
Đèn xanh đỏ để dừng hay đi tiếp
Dù muốn dù không vẫn phải quan tâm.

Nếu muốn sống – hãy làm chim bồ câu
Nếu muốn chết – đến Roma đi bộ
Hồn bơ vơ trong phố nhỏ u sầu.

Roma, peligro para caminantes

Trata de no mirar sus monumentos,
caminante, si a Roma te encaminas.
Abre cien ojos, clava cien retinas,
esclavo siempre de los pavimentos.

Trata de no mirar tantos portentos,
fuentes, palacios, cúpulas, ruinas,
pues hallarás mil muertes repentinas
-si vienes a mirar-, sin miramientos.

Mira a diestra, a siniestra, al vigilante,
párate al ¡alto!, avanza al ¡adelante!,
marcha en un hilo, el ánimo suspenso.

Si vivir quieres, vuélvete paloma;
si perecer, ven, caminante a Roma,
alma garaje, alma garaje inmenso.


Thơ tình Eugenio Montale


XENIA*

1
Côn trùng dễ thương ơi, anh không biết
tại vì sao em lại gọi là ruồi
ngày hôm nay trời hầu như tối mịt
còn anh đọc quyển Deuteroisaia(1) phần hai
khi em lại hiện lên trước mặt anh đây
chỉ một điều em không đeo kính
nên em không thể nào nhìn ngắm
còn anh không thể thiếu kính này
để nhận ra em trong làn khói.

2
Không có râu ria, không có kính
không cánh bay, tội nghiệp quá em ơi
em chỉ bay trong giấc mộng mà thôi
bài hát cổ xưa trong Kinh Thánh
có quá ít điều thú vị và đêm đen
sấm chớp và sau đó mưa dông
không phải mưa dông, chẳng lẽ là em có thể
vội vàng ra đi
không nói năng một điều gì
dù anh vẫn nghĩ rằng đôi môi ngày ấy.

3
Khách sạn Saint James ở Pari anh cần thuê
phòng một người (họ không vui
khi khách đi lẻ), và thế rồi
ở khách sạn Bisanzio cũng thế
sau đó, khi đi tìm
cái phòng của những cô nhân viên điện thoại
là những người quen biết của em
thì đã không còn dây máy
khao khát có em
dù chỉ một cử chỉ, dù chỉ một thói quen.

4
Ta học theo cách, để sau khi chết hai ta
theo dấu này tìm ra nhau nhanh chóng.
Anh thử huýt gió lên với niềm hy vọng
rằng sự đã rồi, không biết rằng ta đã cõi hư vô.

5
Anh vẫn không hiểu rằng, có phải anh đã từng
là con chó trung thành của em đau ốm
và có phải em cũng vậy của anh.
Còn với những người khác em chỉ là côn trùng
bị đánh mất trong tiếng kêu rỉ rả
cao hơn thế gian. Trong sự giản dị
của những kẻ láu lỉnh, tinh ranh
rằng chúng chỉ là trò chơi trong tay em
trong bóng tối thấy rõ ràng không cần thêu dệt
với linh cảm của em chính xác
bằng sự định vị của chuột bay.

6
Em không nghĩ rằng sẽ để lại sau mình dấu vết
trong thơ văn mà em say đắm đã từng
chính vì thế mà sau này anh cảm thấy buồn nôn
chính vì thế mà anh sợ rằng em, sau đấy
quẳng anh vào nhóm các nhà thơ mới(2)
như cái đầm.


7
Lòng thương mình, đau đớn tận cùng và buồn chán
của người yêu đất đai và hy vọng
(ai dám nói rằng “thế giới khác”?
………………………………
“Lòng thương lạ lùng, kì quặc”(3) (Azucena, màn thứ hai).

8
Lời của em lảng bảng và khó khăn
những gì còn, cám ơn ngành bưu điện.
Nhưng bây giờ lời của em khó nhận
anh học cách phân biệt giọng nói của em
khi để ý lắng nghe tiếng tíc tắc của máy đánh tin
trong vòng khói bập bềnh của thuốc lá
từ Brissago(4).

9
Em có thể nhìn thấy bằng thính giác
tiền điện thoại sẽ giảm được rất nhiều.

10
“Cô ấy cầu nguyện không?” – “Vâng cô ấy cầu Thánh Antonio(5)
để tìm thấy chiếc ô mất và tìm thấy đồ
từ trong tủ của Thánh Ermete”
“chỉ thế thôi à?” – “Và cầu cho người đã chết
và cầu cho tôi”.
“Thế đủ rồi” – vị mục sư bảo thế.

11
Kí ức về tiếng khóc của em (gấp hai lần – của anh)
không che khuất tiếng cười xưa vui vẻ
có vẻ như báo trước ngày Tận thế
của riêng em, nhưng thật không may mắn, đã không thành.

12
Giống như con chuột chũi, rảo bước mùa xuân
anh đã không còn nghe em nói về chất độc
của thuốc kháng sinh, về nỗi đau thường xuyên trên cơ bắp
về sự may mắn, mà em yêu
không sưởi ấm được bao nhiêu.

Mùa xuân đến gần với những lớp sương mù
ngày dài hơn, và giờ không thể chịu
anh đã không còn nghe em đấu tranh với tiếng kêu ầm réo
của thời gian, của dấu hiệu không giải quyết được vấn đề
của mùa hè kia.

13
Bầy côn trùng từ trong đêm Strasburg
với dao chạm đi vào khe hở nhà thờ
Maison Rouge và chàng hầu bàn của em có tên là
Ruggero, hơi thọt chân và nhẹ nhàng, vui vẻ
còn Striggio, không rõ người ở đâu rất hay mổ
hắn bị người yêu phụ bạc – cô gái Thổ Nhĩ Kì
(mũi hắn đỏ lên vì xấu hổ
và nếu ai nhắc đến sự xấu hổ thì mặt hắn xéo đi vì
addition,(6) nhiều hơn trì hoãn không chịu nổi)
khi đó hiện ra trước mặt em những gì?
có thể chỉ vẩn vơ. Nhưng mà em chỉ nói
“Hãy uống thuốc ngủ vào” – là lời cuối
lời cuối cùng của em nói về anh.

14
Anh trai của em chết sớm, khi đó em
là cô gái tóc xù, rằng em đứng lặng
nhìn sang anh từ bức ảnh hình ôvan.
Anh ấy viết nhạc mà không ai nghe tiếng đàn
những bản nhạc này chưa in, giờ nằm trong tủ
hay thành giấy loại. Có thể là ai đó
viết lại những bản nhạc này mà không rõ
chúng đã từng được viết ra.
Dù chưa từng quen nhưng anh yêu anh ta
giờ về anh ấy, ngoài em, không ai còn nhớ
anh không đi tìm: bây giờ chuyện này vô bổ
sau em, anh là kẻ cuối cùng
nhớ về anh ấy. Nhưng anh ấy biết rằng
có thể yêu bóng hình, bởi ta cũng là chiếc bóng.

15
Người ta vẫn nói rằng thơ anh
không của ai, không thuộc về ai cả
nhưng đã từng của em, thì nghĩa là tất cả
là của em, bởi em không còn là bản chất, mà chỉ bóng hình.
Người ta nói rằng thơ ca trong mức độ của mình
vượt trội hơn tất cả
không thừa nhận rằng tia chớp lửa
có thể chậm hơn những chú rùa.
Chỉ em biết rằng sự chuyển động
không khác gì sự đứng yên
rằng trống rỗng là đầy, rằng tĩnh lặng
bầu trời trong – vẻ phổ biến của mây.
còn anh hiểu hơn về con đường dài
qua ngục tù thạch cao và vải gạc
nhưng không mang đến cho anh vẻ lặng yên, tĩnh mịch
rằng anh hoà nhập với em, dù một hoặc hai người.
__________

*Tập thơ “Xenia” là những kỉ niệm của Eugenio Montale về người vợ đã mất. “Xenia” – tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là chùm thơ nhỏ.
(1) Sách tiên tri Ê-sai trong Kinh Cựu Ước.
(2) Các nhà thơ mới “neoteroi” – nhóm các nhà thơ La Mã thế kỉ I tr. CN, người nổi tiếng nhất là Gaius Valerius Catullus (87-54 tr. CN).
(3) “Lòng thương lạ lùng kì quặc”- lời cô gái Digan Azuccena, màn thứ hai trong một vở Opera của Giuseppe Verdi (1813-1901).
(4) Tên một loại thuốc lá và là địa danh ở Thuỵ Sĩ.
(5) Theo truyền thuyết Thánh Antonio giúp tìm ra đồ bị thất lạc.
(6) Addition – sự thêm vào (tiếng Anh). Trong thơ của mình, đặc biệt là ở giai đoạn sau Eugenio Montale rất hay sử dụng tiếng Anh trong những bài thơ viết bằng tiếng Italia.


XENIA

1
Caro piccolo insetto
che chiamavano mosca non so perche,
stasera quasi al buio
mentre leggevo il Deuteroisaia
sei ricomparsa accanto a me,
ma non avevi occhiali,
non potevi vedermi
ne potevo io senza quel luccichio
riconoscere te nella foschia.

2
Senza occhiali, ne antenne,
povero insetto, che ali
avevi solo nella fantasia,
una bibbia sfasciata ed anche poco
attendibile, il nero della notte,
un lampo, un tuono e poi
neppure la tempesta. Forse che
te n'eri andata cosi presto senza
parlare? Ma e ridicolo
pensare che tu avessi ancora labbra

3
Аl Saint James di Parigi dovro chiedere
una camera 'singola' (non amano
i clienti spaiati). E cosi pure
nella falsa Bisanzio del tuo albergo
veneziano; per poi cercare subito
lo sgabuzzino delle telefoniste,
le tue amiche di sempre; e ripartire,
esaurita la carica meccanica,
il desiderio di riaverti, fosse
pure in un solo gesto o un'abitudine.

4
Аvevamo studiato per l'aldila
un fischio, un segno di riconoscimento.
Mi provo a modularlo nella speranza
che tutti siamo gia morti senza saperlo.

5
Non ho mai capito se io fossi
il tuo cane fedele e incimurrito
o tu lo fossi per me.
Per gli altri no, eri un insetto miope
smarrito nel blabla
dell'alta societa. Erano ingenui
quei furbi e non sapevano
di essere loro il tuo zimbello:
di esser visti anche al buio e smascherati
da un tuo senso infallibile, dal tuo
radar di pipistrello.

6
Non hai pensato mai di lasciar traccia
di te scrivendo prosa o versi. E fu
il tuo incanto - e dopo la mia nausea di me.
Fu pure il mio terrore: di esser poi
ricacciato da te nel gracidante
limo dei neoteroi.

7
Pieta di se, infinita pena e angoscia
di chi adora il quaggiu e spera e dispera
di un altro... (Chi osa dire un altro mondo?).
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
':Strana pieta...' (Azucena, atto secondo).

8
La tua parola cosi stenta e imprudente
resta la sola da cui mi appago.
Ma e mutato l'accento, altro il colore.
Mi abituero a sentirti o a decifrarti
nel ticchettio della telescrivente,
nel volubile fomo dei miei sigari
di Brissago.

9
Ascoltare era il solo tuo modo di vedere.
Il conto del'telefono s'e ridotto a ben poco

10
"Pregava?". "Si, pregava Sant'Antonio
perche fa ritrovare
gli ombrelli smarriti e altri oggetti
del guardaroba di Sant'Ermete".
"Per questo solo?". "Anche per i suoi morti
e per me".
"E sufficiente" disse il prete.

11
Ricordare il tuo pianto (il mio era doppio)
non vale a spegner lo scoppio delle tue risate,
Erano come l'anticipo di un tuo privato
Giudizio Universale, mai accaduto purtroppo.

12
La primavera sbuca col suo passo di talpa.
Non ti sentiro piu parlare di antibiotici
Velenosi, del chiodo del tuo femore,
dei beni di fortuna che t'ha un occhiuto omissis
spennacchiati.

La primavera avanza con le sue nebbie grasse,
Con le sue luci lunghe, le sue ore insopportabili.
Non ti sentiro piu lottare col rigurgito
del tempo, dei fantasmi, dei problemi logistici
dell' Estate.

13
Il grillo di Strasburgo notturno col suo trapano
in una crepa della cattedrale;
la Maison Rouge e il barman tuo instillatore di basco,
Ruggero zoppicante e un poco alticcio;
Striggio d'incerta patria, beccatore
Di notizie e antipasti, tradito da una turca
(arribinato il naso di pudore
ove ne fosse cenno, occhio distorto
da non piu differibile addition)
ti riapparvero allora? Forse nugae
anche minori. Ma tu dicesti solo
"prendi il sonnifero", l'ultima
tua parola - e per me.

14
Tuo fratello mori giovane, tu eri
La bimba scarrufata che mi guarda
'in posa' nell'ovale di un ritratto.
Scrisse musiche inedite, inaudite,
Oggi sepolte in un baule o andate
Al macero. Forse le riinventa
Qualcuno inconsapevole,
se cio ch'e scritto e scritto.
L'amavo senza averlo conosciuto.
Fuori di te nessuno lo ricordava.
Non ho fatto ricerche: ora e inutile.
Dopo di te sono rimasto il solo
per cui egli e esistito. Ma e possibile,
lo sai, amare un ombra, ombre noi stessi.

15
Dicono che la mia
sia una poesia d'innapartenenza.
Ma s'era tua, era di qualcuno,
di te, che non sei piu forma, ma essenza.
Dicono che la poesia al suo culmine
magnifica il Tutto in fuga
negano, che la testuggine
sia piu veloce di un fulmine.
Tu sola sapevi, che il moto
non e diverso dalla stasi,
che il vuoto e il pieno e il sereno
e la piu diffusa delle nubi.
Cosi meglio intendo il tuo lungo viaggio
Impriggionata tra le bende e le gessi.
Eppure non mi da riposo
sapere che in uno o in due noi siamo una sola cosa.

Thơ tình Salvatore Quasimodo


MÀU MƯA VÀ RỈ SẮT

Ngươi nói rằng: sự im lặng, cái chết, sự cô đơn
cũng như người ta nói tình yêu và cuộc sống
đó là những lời trung chuyển.
Và ngọn gió mỗi buổi sáng rung lên
và màu mưa, rỉ sắt của thời gian
mang về trên đá
trên những lời nguyền rủa
đến sự thật hãy còn quá xa xôi.
Thì hãy nói cho ta nghe, con người
con người bị đóng đinh trên thập ác
và ngươi - đôi bàn tay máu còn dính chặt
ta biết trả lời làm sao những câu hỏi này?
và giờ đây
trước khi sự im lặng ùa vào đôi mắt
trước khi ngọn gió mới lại rung lên, và rỉ sắt
lại dâng đầy.

Colore di pioggia e di ferro

Dicevi: morte silenzio solitudine;
come amore, vita. Parole
delle nostre provvisorie immagini.
E il vento s'e levato leggero ogni mattina
e il tempo colore di pioggia e di ferro
ё passato sulle pietre,
sul nostro chiuso ronzio di maledetti.
Ancora la verita ё lontana.
E dimmi, uomo spaccato sulla croce,
e tu dalle mani grosse di sangue,
come rispondero a quelli che domandano?
Ora, ora: prima che altro silenzio
entri negli occhi, prima che altro vento
saiga e altra ruggine fiorisca.


TUYẾT

Ngọn gió cúi xuống, chia tay với các ngươi
những bóng hình yêu quí của đất đai – cây cối
con người, súc vật
trùm lên những chiếc áo khoác
những bà mẹ không biết làm sao khóc lên
và như trăng, tuyết chiếu sáng cho ta từ những cánh đồng.
Ôi những linh hồn chết trong con tim gõ nhịp.
Dù cho ai đấy phá vỡ sự lặng im bằng tiếng khóc nức nở của mình,
như áo quan, màu tuyết trắng khắp nơi như màu chết.

Neve

Scende la sera: ancora ci lasciate
immagini care della terra, alberi,
animali, povera gente chiusa    
dentro i mantelli dei soldati, madri dal
ventre inaridito dalle lacrime. E la neve
ci illumina dai prati come luna. Oh
questi morti. Battete sulla fronte,
battete fino al cuore. Che urli almeno
qualcuno nel silenzio, in questo cerchio
bianco di sepolti.


TRÊN NHỮNG RẶNG LIỄU

Chẳng lẽ ta có thể hát lên dưới gót dày
của ngoại bang, khi mà trên những quảng
trường mùa đông chất đầy xác chết
đã nhiều ngày, và con tim tan nát
vì không im tiếng khóc, tiếng nức nở của
những mẹ già có những đứa con trai bị treo
trên dây thép? Lúc này ta phải hát làm sao?
Trên những rặng liễu, giữa đồng hoang và
những cây đàn của ta nhẹ tênh, đung đưa
trong ngọn gió giá băng vô cùng buồn bã.

Alle fronde dei salici

Е come potevamo noi cantare con il
piede straniero sopra il cuore, fra i
morti abbandonati nelle piazze sull'erba
dura di ghiaccio, al lamento d'agnello
dei fanciulli, all'urlo nero della madre
che andava incontro al figlio crocifisso
sul palo del telegrafo? Alle fronde dei
salici, per voto, anche le nostre cetre
erano appese, oscillavano lievi al triste
vento.


HÒN ĐẢO ODYSSEY

Giọng nói cổ xưa quyết đoán
Và anh nghe theo tiếng vọng phù du
Cùng sự lãng quên đêm vắng
Giữa vực thẳm sao trời.

Từ ngọn lửa trời xanh
Hòn đảo Odyssey xuất hiện
Cây cối, bầu trời bơi trong đêm yên tĩnh
ở giữa bờ sông trăng.

Em yêu ơi, những con ong mang đến cho ta vàng
Thời gian âm thầm biến đổi.

Isola di Ulisse

Ferma è l'antica voce.
Odo risonanze effimere,
oblio di piena notte
nell'acqua stellata.

Dal fuoco celeste
nasce l'isola di Ulisse.
Fiumi lenti portano alberi e cieli
nel rombo di rive lunari.

Le api, amata, ci recano l'oro:
tempo delle mutazioni, segreto.


ANH CÓ MẤT MÁT GÌ ĐÂU

Anh vẫn ở đây, mặt trời vẫn quay vòng
ở sau lưng, như con đại bàng và đất
giọng của anh lặp lại ở trong em. 
và cái nhìn của thời gian tiếp tục
trong đôi mắt mở ra sự khởi đầu.
mà anh thì có mất mát gì đâu
mất mát, nghĩa là ta bước đến
giới hạn của bầu trời
dòng ước mơ và dòng sông trôi
đầy lá rụng. 

Non ho perduto nulla

Sono ancora qui, il sole gira
alle spalle come un falco e la terra
ripete la mia voce nella tua.
E ricomincia il tempo visibile
nell’occhio che riscopre la luce.
Non ho perduto nulla.
Perdere è andare di là
da un diagramma del cielo
lungo movimenti di sogni, un fiume
pieno di foglie.