Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Thơ tình Konstanty Gałczyński

Konstanty Gałczyński 


CHUYỆN TRÒ

- Anh yêu em như thế nào, anh hãy nói?
- Anh sẽ nói bây giờ…
- Anh nói đi.
- Anh yêu em ngày dưới mặt trời, đêm dưới nến
Yêu em khi em đội mũ, quàng khăn
Yêu em trong nhà hát, giữa ngã tư đường
Trong tím tử đinh hương, trong bạch dương, phúc bồn tử
Yêu em cả khi em đi làm, khi em ngủ
Và khi em đập quả trứng vỡ rất dễ thương
Ngay cả khi chiếc thìa nhỏ em buông.
Trong xe tắc xi, khi gần, khi xa thẳm
Và cả khi em đi bộ đến
Yêu em cả bắt đầu, cả ở cuối con đường
Khi em chải tóc bằng chiếc lược con.
Cả dưới biển, trên rừng, cả khi em khó xử
Yêu bây giờ. Yêu hôm qua, ngày mai. Cả ngày và đêm cũng thế
Và khi chim én bay về báo hiệu mùa xuân.
- Thế mùa hè anh có yêu em không?
- Cháy bừng như nắng hạ.
- Thế mùa thu mây đen khắp nơi, cây rụng lá?
- Anh yêu, ngay cả khi em đánh mất chiếc ô!
- Thế mùa đông, khi tuyết rơi bên cửa sổ trắng mờ?
- Ô! Mùa đông anh yêu em như ngọn lửa
Luôn ở trong tim em. Khi gần, khi xa cũng thế
Dù ở bên ngoài cửa sổ tuyết trắng rơi
Còn quạ đen bay dưới tuyết, giữa trời.



Rozmowa lirycna

- Powiedz mi jak mnie kochasz.
- Powiem.
- Więc?
- Kocham cie w słońcu. I przy blasku świec.
Kocham cię w kapeluszu i w berecie.
W wielkim wietrze na szosie, i na koncercie.
W bzach i w brzozach,
i w malinach, i w klonach.
I gdy śpisz. I gdy pracujesz skupiona.
I gdy jajko roztłukujesz ładnie -
nawet wtedy, gdy ci łyżka spadnie.
W taksówce. I w samochodzie. Bez wyjątku.
I na końcu ulicy. I na początku.
I gdy włosy grzebieniem rozdzielisz.
W niebezpieczeństwie. I na karuzeli.
W morzu. W górach. W kaloszach. I boso.
Dzisiaj. Wczoraj. I jutro. Dniem i nocą.
I wiosną, kiedy jaskółka przylata.
- A latem jak mnie kochasz?
- Jak treść lata.
- A jesienią, gdy chmurki i humorki?
- Nawet wtedy, gdy gubisz parasolki.
- A gdy zima posrebrzy ramy okien?
- Zimą kocham cię jak wesoły ogień.
Blisko przy twoim sercu. Koło niego.
A za oknami śnieg. Wrony na śniegu.


FARLANDIA

Anh và em mong gặp gỡ trên cầu
Để cùng nhau đi nói chuyện tình yêu
Dưới bóng cây phong, bên quầy thuốc lá.

Nhưng chuyện xảy ra như anh từng nghĩ
Quân vô chính phủ cho nổ tung cầu
Ta chẳng gặp nhau vì chuyện này sao?

Đời chật chội, khắp nơi đều khó ở
Nhưng anh biết rằng có xứ Farlandia
Bầu trời xanh, có những cành lá cọ.

Em chớ u sầu, chớ tuôn dòng lệ
Chớ lo âu rằng chúng đã phá cầu
Ở xứ sở kia mình sẽ gặp nhau.
*
Những cành cọ đung đưa
Những cành cọ đung đưa
Có--có--có.

Tất cả nơi này đầy đủ
Ta không đến đây lần nữa
Không--bao--giờ.

Chim làm tổ trên cành cọ
Chim uống nước từ lá cọ
Mi--ma--mi.

Quên hết những u buồn
Và ta nuôi giấc mơ suông
Bằng những cành lá cọ.

Những cành cọ đung đưa
Những cành cọ đung đưa
Quá nhiều lá cọ.

Chúng ta đi về xứ sở
Ngọt ngào, xa xôi, bé nhỏ
Có tên là Farlandia.
1934
 ______________
* Far land (tiếng Anh) — xứ sở xa xôi.

Farlandia

Myśmy mieli się spotkać na moście,
by pomówić o naszej miłości,
pod tym klonem, koło budki z papierosami;

ale, jakem przewidywał: oczywiście
most w powietrze wysadzili anarchiści,
no to gdzie się teraz spotkamy?

Wszędzie duszno i ciasno - lecz znam ja
pewien kraj pod nazwą Farlandia,
tam jest niebo śpiewające i palmy.

No, no, nie płacz, nie troskaj się. nie martw,
że tego mostu już nie ma --
my się jutro w Farlandii spotkajmy:

Palmy się kołyszą
palmy się kołyszą --
tak -- tak -- tak.

Tu wszystko zostało,
tu więcej nie wrócę --
nie -- nie -- nie.

Ptaki nad palmami,
w palmach słodkie miąższe --
mi -- ma -- mi.

Karmimy się snami,
a w snach znów najdroższe
palmy.

Palmy się kołyszą,
palmy się kołyszą --
za dużo.

To jest kraj, który jedziemy odkryć,
bardzo wiotki, bardzo słodki --
Farlandia.



TRƯỚC LĂNG LÊ-NIN

Tôi thấy ngày này hết lần này lượt khác
Không thể nào tôi quên được ngày này.
Gió trên Quảng trường Đỏ rất khắc nghiệt
Và trên Quảng trường hôm đó tuyết rơi. 

Tôi nhớ sau đó mặt trời ghé xuống
Chiếu trên Lăng, sau một ngày đẹp trời
Tôi lỗi lầm, sau nhiều năm phiêu lãng
Và cuối cùng cũng đến được nơi đây. 

Bao khúc tang chế vẫn cần được hát
Kèn hãy vang lên để tiếc thương ông
Người đã dịch chuyển trung tâm quả đất
Bằng ý chí vô sản về phía Đông.

Tôi đã thề: sẽ không bao giờ yếu đuối
Biến ngòi bút thành tia sáng tỏa hào quang
Thế kỷ mới bắt đầu. Chỉ hai lời như vậy:
LÊ-NIN.
1948

Przed mauzoleum Lenina

Ten dzień widzę znowu i znowu -
ten dzień - nigdy nie zapomnę o nim:
Wiatr surowy i rześki dął
i śnieg leżał na Placu Czerwonym.

Pamiętam, że zachodziło słońce
nad Mauzoleum, po pięknym dniu.
Grzeszny człowiek, po latach błądzeń
wreszcie dotarłem tu.

Ileż by jeszcze trzeba trąb, żałobnych nut!
Bo, że umarł, to ciągle boli -
Ten, który centrum globu przesunął na wschód
ramieniem proletariackiej woli.

Przysięgam: Już nigdy nie będę słaby,
pióro w promień przemienię i niech się promieni.
Oto nowe stulecie. A tylko dwie sylaby:
LENIN.



TÔI YÊU
Tặng Zygmunt Mycielski

Tôi yêu tiếng hót họa mi trong đêm
Trong đêm tháng năm thật khác thường
Và bầu trời đầy sao, thật hài hước
Như bản “Giao hưởng thiếu nhi” của Haydn. 

Nhưng tôi còn yêu tuyết nhiều hơn
Tuyết trên mái nhà Vác-sa-va đang ngủ
Váy em trắng và san hô trắng xóa
Nói tóm lại, là những thứ dịu dàng. 

Nhưng yêu nhất tiếng tu hú ở Praha
Mùa hè hót trên nấm mồ của mẹ
Và không xa trăng chiếu trên phố nhỏ
Nơi ngày nào từng nhìn thấy Sô-panh. 

Lubię...
Zygmuntom Mycielskiemu

Lubię słowika gwizdek
Noc, gdy majowa i fajna,
I niebo, nad tą nocą; takie śmieszne i gwiaździste
jak "Symfonia dziecięca" Haydna.

Ale berdziej lubię śnieg
śpiący na dachach Warszawy
i twoją hialą suknię, i twoje białe korale,
słowee, te wszystkie śnieżne sprawy.

Ale najbardziej lubię w Pradze pewną kukułkę,
co kuka latem nad matki mojej grobem,
a niedaleko księżyc wędruje zaułkiem,
przezktóry kiedyś szybko pędzł Szopen.

Thơ tình Adam Mickiewicz

Adam Mickiewicz 


NGHI NGỜ

Anh đau khổ khi không nhìn thấy em
Khi gặp em – rối bời anh đã chẳng
Nhưng nếu hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Thì anh buồn, anh cảm thấy cô đơn
Không làm sao trả lời được cho mình:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Khi ở xa nụ cười, ánh mắt của em
Hình bóng em, anh đã không tưởng tượng
Dù cố gắng, chỉ hoài công, phí uổng
Hình bóng rất gần tuyệt đẹp, lung linh
Anh không đoán ra đến tận bình minh:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Anh chịu đựng đã nhiều, nhưng dù thế
Em trong nỗi niềm cay đắng chẳng hình dung
Không mục đích, em không giữ con đường
Anh chẳng biết tìm đâu ra cánh cửa
Ai dẫn đường? Sao chẳng có lời khuyên:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Anh trao em sức khỏe, nếu em cần
Vì yên lặng của em, khổ đau anh chịu đựng
Và chẳng phải bằng những lời trống rỗng
Anh mong lặng yên, mong sức khỏe cho mình
Nhưng nguyên nhân của hẹn ước thề nguyền:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Có chạm đến chăng bàn tay kín thầm
Có lãng quên trong giấc mơ êm ái
Anh khó nhọc đến muôn đời, mãi mãi
Và nghi ngờ thức dậy giữa con tim
Và lí trí đòi hỏi một lời khuyên:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Bài thơ sáu khổ, không đọc cho anh
Người bạn nhà thơ - linh hồn báo mộng
Không biết từ đâu trên trang giấy trắng
Những tứ thơ, những vần điệu hiện ra?
Làm nức lòng, làm hứng khởi nhà thơ?
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?


Niepewność


Gdy cię nie widzę, nie wzdycham, nie płaczę,
Nie tracę zmysłów, kiedy cię zobaczę;
Jednakże gdy cię długo nie oglądam,
Czegoś mi braknie, kogoś widzieć żądam;
I tęskniąc sobie zadaję pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Gdy z oczu znikniesz, nie mogę ni razu
W myśli twojego odnowić obrazu?
Jednakże nieraz czuję mimo chęci,
Że on jest zawsze blisko mej pamięci.
I znowu sobie powtarzam pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Cierpiałem nieraz, nie myślałem wcale,
Abym przed tobą szedł wylewać żale;
Idąc bez celu, nie pilnując drogi,
Sam nie pojmuję, jak w twe zajdę progi;
I wchodząc sobie zadaję pytanie;
Co tu mię wiodło? przyjaźń czy kochanie?

Dla twego zdrowia życia bym nie skąpił,
Po twą spokojność do piekieł bym zstąpił;
Choć śmiałej żądzy nie ma w sercu mojem,
Bym był dla ciebie zdrowiem i pokojem.
I znowu sobie powtarzam pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Kiedy położysz rękę na me dłonie,
Luba mię jakaś spokojność owionie,
Zda się, że lekkim snem zakończę życie;
Lecz mnie przebudza żywsze serca bicie,
Które mi głośno zadaje pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czyli też kochanie?

Kiedym dla ciebie tę piosenkę składał,
Wieszczy duch mymi ustami nie władał;
Pełen zdziwienia, sam się nie postrzegłem,
Skąd wziąłem myśli, jak na rymy wbiegłem;
I zapisałem na końcu pytanie:
Co mię natchnęło? przyjaźń czy kochanie?


GỬI VÀO ALBUM S. B

Đã qua phút giây hạnh phúc của mùa hè
Khi ta nhẹ nhàng dạo chơi trên đồng cỏ
Ngắt những bông hoa, ta bó thành một bó
Hoa bây giờ nơi đó chẳng tìm ra.

Quên bão giông, bóng tối giữa trời xanh
Ở nơi đó ánh vàng lên đồng cỏ
Tìm trang giấy cho bàn tay em nhỏ
Nhưng em ơi trang giấy thật khó tìm.

Thấy trang giấy, anh mang nó theo mình
Dù điều này em không còn trân trọng
Trang giấy này bàn tay anh sưởi ấm
Quà tặng cuối cùng anh gửi về em.

 W imionniku S.B.


Jaśniały chwile szczęśliwe, niestety!
Kiedy na błoniach był kwiatów dostatek,
Kiedy mi było łatwiej o bukiety
Niżeli teraz o kwiatek.

Ryknęły burze, ciągłe leją słoty,
Trudno wynaleźć na ojczystej błoni,
Trudno wynaleźć, gdzie kwiat błyskał złoty,
Listka dla przyjaznej dłoni.

Co wynalazłem, nich tobie poświęcę,
Racz wdzięcznie przyjąć, chociażby z tej miary,
Że był ten listek w przyjacielskiej ręce,
Że to ostatnie są dary.



HÃY NGỦ NGON

Hãy ngủ ngon! Anh chia tay với em
Để thiên thần đưa em vào giấc mộng
Hãy ngủ ngon! Đắm chìm vào quên lãng
Vẻ lặng yên sẽ mang đến trong lòng.

Từng phút giây em hãy ở bên anh
Một bước đi, một lời, em hãy nhớ
Để hình dung theo từng đường nét nhỏ
Gọi anh về từ bóng tối đêm đen!

Hãy ngủ ngon! Cho anh nhìn mắt em
Và gương mặt, cho anh nhìn có được?
Hãy ngủ ngon! Cho anh hôn lên ngực!

Em đừng đi, cho anh nói hai lời
Hãy ngủ ngon!… Em đóng cửa mất rồi
Anh nói trăm lần: "ngủ ngon" - để em không ngủ được.

Dobranoc


Dobranoc! już dziś więcej nie będziem bawili,
Niech snu anioł modrymi skrzydły cię otoczy,
Dobranoc, niech odpoczną po łzach twoje oczy,
Dobranoc, niech się serce pokojem zasili.

Dobranoc, z każdej ze mną przemówionej chwili
Niech zostanie dźwięk jakiś cichy i uroczy,
Niechaj gra w twoim uchu; a gdy myśl zamroczy,
Niech się mój obraz sennym źrenicom przymili.

Dobranoc, obróć jeszcze raz na mnie oczęta,
Pozwól lica. - Dobranoc - chcesz na sługi klasnąć?
Daj mi pierś ucałować. - Dobranoc, zapięta.

- Dobranoc, już uciekłaś i drzwi chcesz zatrzasnąć.
Dobranoc ci przez klamkę - niestety! zamknięta!
Powtarzając: dobranoc, nie dałbym ci zasnąć.



PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG BẮC

Nơi ta sống trị vì cơn bão tuyết
Có ghen chăng, những kẻ ở phương nam?
Miền đất mêng mông, không có tận cùng
Hoa trong bình minh và con tim rực lửa
Nhưng ở đó họa mi giờ đang ngủ
Những bông hồng, phút chốc đã ngắn hơn
Lục địa khô khan nhưng ký ức giữ gìn
Về những kẻ nằm trong mồ yên ngủ
Quý đất đai những ai nằm trong mộ
Và nhân gian muôn thuở chẳng hề quên.

Wschód i Północ

Porzuceni na swiata lodowatym końcu,
Nie zazdrośćmy krainom sąsiedniejszym słońcu:
Ich ląd kaszemirskiego ma barwę kobierca,
Kwiat z jedwabiu jutrzenki, z płomienia ich serca;
Lecz niech bulbul zabłyśnie - i wnet oko zmruży;
Wnet znikną w ziemi liście, w sercach pamięć róży.
A nasze lądy zimnym dochowują łonem
Pamięć istot straconych przed lat milijonem.
Jeśli ziemia tak długo chowa martwy szczątek,
Jakież są nasze serca - dla żywych pamiątek!



GỬI LAURA

Vừa thấy em, anh đã bừng cháy lên
Thấy người quen trong đôi mắt xa lạ
Đôi má em ửng lên một màu hồng
Như buổi bình minh hoa hồng vừa nở. 

Em vừa hát – anh đã tuôn dòng lệ
Tiếng hát thấu lòng, lay động con tim
Như thiên thần giữa không gian rộng mở
Nguyện hồn ai, bỗng gọi đúng tên mình.

Em thân yêu, em hãy mở tấm lòng
Anh không cần quan tâm vì số kiếp
Và những lời đàm tiếu của đám đông:

Rằng anh phải bỏ, vô vọng trong tình.
Dù kết hôn với người bằng thể xác
Thì hồn em đã gắn với hồn anh. 

Do Laury

Ledwiem ciebie zobaczył, jużem się zapłonił,
W nieznanym oku dawnej znajomości pytał;
I z twych jagód wzajemny rumieniec wykwitał,
Jak z róży, której piersi zaranek odsłonił.

Ledwieś piosnkę zaczęła, jużem łzy uronił,
Twój głos wnikał do serca i za duszę chwytał;
Zdało się, że ją anioł po imieniu witał
I w zegar niebios chwilę zbawienia zadzwonił.

O luba! niech twe oczy przyznać się nie boją,
Jeśli cię mym spojrzeniem, jeśli głosem wzruszę;
Nie dbam, że los i ludzie przeciwko nam stoją,

Że uciekać i kochać bez nadziei muszę.
Niech ślub ziemski innego darzy ręką twoją,
Tylko wyznaj, że Bóg mi poślubił twą duszę.



CHUYỆN TRÒ

Em thân yêu! 
Biết lấy gì để trò chuyện với em
Biết lấy gì để cùng em chia sẻ
Hòa nhập hồn vào nhau ta không thể
Còn chia hồn tôi thành những lời suông
Mà trước khi chúng chạm đến hồn em
Đã tắt trên môi, tan trong không khí?

“Anh yêu em!” – một trăm lần như thế
Làm em buồn, em tức giận mà thôi
Rằng không biết cách thể hiện tình tôi
Không biết nói ra lời, không thể hát
Như người hôn mê, tôi không đủ sức
Để chứng minh máu nóng chảy trong người. 

Tôi lãng phí đôi môi này vô ích
Và bây giờ muốn kết với môi em
Để cho con tim rộn ràng lại đập
Với những thở dài, với những nụ hôn
Và trò chuyện suốt giờ, ngày, tháng, năm
Đến khải huyền, thế giới này kết thúc. 
1825

Rozmowa

Kochanko moja! na co nam rozmowa?
Czemu, chcąc z tobą uczucia podzielać,
Nie mogę duszy prosto w duszę przelać?
Za co ją trzeba rozdrabiać na słowa,
Które nim słuch twój i serce dościgną,
W ustach wietrzeją, na powietrzu stygną?

 Kocham, ach! kocham, po sto razy wołam:
A ty się smucisz i zaczynasz gniewać,
Że ja kochania mojego nie zdołam
Dosyć wymówić, wyrazić, wyśpiewać;
I jak w letargu, nie widzę sposobu
Wydać znak życia, bym uniknął grobu.

 Strudziłem usta daremnem użyciem:
Teraz je z twemi chcę stopić ustami,
I chcę rozmawiać tylko serca biciem,
I westchnieniami i całowaniami,
I tak rozmawiać, godziny, dni, lata,
Do końca świata i po końcu świata.



GIÁ MÀ ANH

Giá mà anh thành dải ruy băng vàng
Để trên vầng trán của em tỏa sáng
Giá mà anh trở thành chiếc áo choàng
Dù mỏng manh vẫn đè lên ngực ấm. 

Để anh sẽ lay động trái tim em
Có đáp lại trái tim này, hay chẳng
Để ngực em anh nâng lên hạ xuống
Và nghe theo từng hơi thở của em.  

Giá mà anh được trở thành cơn gió
Yêu cuộc đời, bay lượn giữa trời xanh
Trên con đường nhiều bông hoa thắm đỏ
Sẽ ve vuốt hoa hồng và vuốt ve em. 

Có thể Chúa Trời trong ngày phán xét
Sẽ đánh giá cao công việc của anh:
Ngài ban cho anh một niềm hạnh phúc –
Sẽ biến anh trở thành trái tim em. 

Do

Gdybym się zmienił w wstęgę złocistą,
Co na twem czole połyska,
Gdybym się zmienił w tę szatę mglistą,
Co piersi twoje przyciska —

 Drżeniabym serca twojego badał,
Czy nie odpowie mojemu,
Z twojem się łonem wznosił i spadał,
Posłuszny tchnieniu twojemu.

 Gdybym się zmienił w wietrzyk skrzydlaty,
Co dysze w pogodnem niebie,
W drodzebym mijał najświeższe kwiaty,
A pieścił różę i ciebie.

 Może nakoniec Bóg litościwy
Pracęby moją ocenił,
Może nakoniec byłbym szczęśliwy,
I w twe się serce zamienił.



GHI VÀO ALBUM

Mình buông tay về những phía khác nhau
Suy nghĩ của ta trong đời cũng khác
Theo hướng khác nhau nhìn từng đôi mắt
Biết làm sao mình đến được với nhau?

Như những ngôi sao dáng vẻ khác nhau
Và mỗi ngôi lại trôi về một phía
Trong thế giới đầy đớn đau khổ ải
Chẳng yên bình, ta biết phải làm sao.

Kẻ lưu vong muôn thuở có điều chi
Tốt hay xấu – chẳng biết gì đang đợi
Sự ghê tởm làm cho ta gần lại
Gắn kết yêu thương bằng những hận thù.

Do*, w sztambuch

Ku różnym stronom ściągnęliśmny dłonie,
W różnych mieszkały światach nasze myśli,
Oczy ku różnej wyglądały stronie,
Jakże, o luba, ku sobieśmy przyszli?

 Jak gwiazdy, równe wielkością i kształtem,
Do przeciwnego wyrzucone biegu,
Kiedy je niebo jednostajnym gwałtem
Wiecznie odtrąca od każdego brzegu,

 Wieczni wygnańcy z powszechnego świata,
Jestże to dla nich szkodą czy korzyścią,
Że wstręt ku wszystkim znowu je pobrata
I że się muszą kochać... nienawiścią?...



GHI VÀO ALBUM Z

Khi em buồn nhìn thấy bao con sóng
Ném chiếc thuyền con, con sóng bạc đầu
Đừng để trái tim thiên thần lo lắng
Vì những buồn lo, tuyệt vọng, khổ đau
Trong giờ phút, khi mà con sóng lớn
Giật chiếc thuyền con ra khỏi con tàu. 

Khi tất cả mọi điều trên sóng nước
Có thể xảy ra thì lo lắng làm chi
Thà cứ đưa mắt nhìn về phía trước
Để tìm cách chống lại những hiểm nguy
Còn hơn là em cứ đứng trên bờ
Nhìn ra biển đếm những gì mất mát.

Żeglarz (W imionniku Z)

Ilekroć ujrzysz, jak zhukana fala
Po głębiach barką przerzuca tułaczą:
Niech się anielskie serce nie użala
Nad płynącego trwogą i rozpaczą!
Tę barkę wicher odbił od okrętu,
Na którym żeglarz swe nadzieje złożył;

Jeżeli wszystko jest pastwą odmętu,
Czegóżby płakał, o coby się trwożył?
Lepiej mu pośród żywiołów bezrządu
Walczyć co chwila z nowymi przygody,
Niż gdyby wybrnął i z cichego lądu
Patrzył na morze i liczył swe szkody.

Thơ tình Odysseas Elytis

Odysseas Elytis


MARINA

Cho anh ngửi mùi bạc hà
Mùi cỏ roi ngựa và húng quế
Và hãy để anh hôn em nhé
Đầu tiên anh sẽ nhớ điều gì?

Đài phun nước với chim bồ câu
Kiếm của thiên thần tổng lãnh
Khu vườn với những ngôi sao sáng
Và một cái giếng sâu.

Và để rồi đêm đêm anh sẽ dẫn
Em dạo chơi bên kia của trời xanh
Khi đã bước lên, anh sẽ nhìn em
Như em gái của ngôi sao buổi sáng.

Marina, em là ngôi sao màu xanh
Marina, em là ánh sáng của sao buổi sáng
Marina, em là bồ câu hoang dã của anh
Là bông huệ của mùa hè nóng bỏng. 


Μαρίνα

Δώσε μου δυόσμο να μυρίσω,
Λουίζα και βασιλικό
Μαζί μ'αυτά να σε φιλήσω,
και τι να πρωτοθυμηθώ

Τη βρύση με τα περιστέρια,
των αρχαγγέλων το σπαθί
Το περιβόλι με τ' αστέρια,
και το πηγάδι το βαθύ

Τις νύχτες που σε σεργιανούσα,
στην άλλη άκρη τ' ουρανού
Και ν' ανεβαίνεις σε θωρούσα,
σαν αδελφή του αυγερινού

Μαρίνα πράσινο μου αστέρι
Μαρίνα φως του αυγερινού
Μαρίνα μου άγριο περιστέρι
Και κρίνο του καλοκαιριού






CHỮ LỒNG VII (Ở THIÊN ĐƯỜNG)

Anh để ý một hòn đảo ở chốn thiên đường
Giống hệt em, và một ngôi nhà bên biển
Với cánh cửa nhỏ và chiếc giường thật lớn
Để anh gieo mình vào những vực của âm thanh
Và để anh ngắm nhìn khi thức giấc mỗi sáng
Để thấy một nửa của em dưới nước, khi em bước xuống
Và để khóc cho nửa kia của em ở chốn thiên đường.

Το μονόγραμμα VII (Στόν Παράδεισο)

Στόν Παράδεισο έχω σημαδέψει ένα νησί
Απαράλλαχτο εσύ κι ένα σπίτι στή θάλασσα
Μέ κρεβάτι μεγάλο καί πόρτα μικρή
Έχω ρίξει μές στ’άπατα μιάν ηχώ
Νά κοιτάζομαι κάθε πρωί που ξυπνώ
Νά σέ βλέπω μισή να περνάς στό νερό
και μισή να σε κλαίω μές στόν Παράδεισο.



MÁU CỦA TÌNH YÊU

Máu của tình yêu nhuộm đỏ người tôi
Những niềm vui ném vào tôi bóng nhỏ
Cơn gió nam làm tôi ô xy hóa
Mẹ xa, hoa hồng bất tử của tôi.

Trong cửa biển người ta đã đợi tôi
Từ ba cột buồm vào tôi họ bắn
Tội lỗi là chỉ tại lòng yêu mến
Mẹ xa, hoa hồng bất tử của tôi.

Đôi mắt to trong tháng bảy một thời
Đã mở ít nhiều bên trong tôi đó
Để thắp sáng cho cuộc đời trinh nữ
Mẹ xa, hoa hồng bất tử của tôi.

Της αγάπης αίματα

Της αγάπης αίματα με πορφύρωσαν
και χαρές ανείδωτες με σκιάσανε
οξειδώθηκα μες στη νοτιά των ανθρώπων
μακρινή μητέρα ρόδο μου αμάραντο

Στ' ανοιχτά του πελάγου με καρτέρεσαν
Με μπομπάρδες τρικάταρτες και μου ρίξανε
αμαρτία μου να 'χα κι εγώ μιαν αγάπη
μακρινή μητέρα ρόδο μου αμάραντο

Τον Ιούλιο κάποτε μισανοίξανε
τα μεγάλα μάτια της μες στα σπλάχνα μου
την παρθένα ζωή μια στιγμή να φωτίσουν
μακρινή μητέρα ρόδο μου αμάραντο

Xem thêm:



Thơ tình Giorgos Seferis

Giorgos Seferis


HELEN

TEUCER: … để giành được đảo Síp, Apollo ra lệnh
xây dựng ở đó thành phố lấy theo tên của
thành phố Salamis quê hương.

.................................................. ...........................

HELEN: Tôi chưa đến Tơ-roa, đấy chỉ là bóng ma. 

.................................................. ...........................
NGƯỜI ĐẦY TỚ: Cái gì? Tất cả đau đớn chỉ là một bóng ma. 

(Euripedes, Helen)


“Ở Platres chim họa mi không cho bạn ngủ”

Những chú họa mi ẩn trong lá thì thầm
Chim đem sự mát mẻ vang vọng cho rừng
Đem cho thể xác và cho cả linh hồn
Của những ai tin rằng không còn quay lại nữa.
Giọng điếc đặc, dò dẫm trong trí nhớ
Những bước chân, không dám gọi “nụ hôn”
Trong cơn giận của người nô lệ nữ. 


“Ở Platres chim họa mi không cho bạn ngủ”

Platres ở đâu? Ai biết những đảo này?
Tôi cả đời chưa từng nghe tên gọi ấy:
Thành phố mới và sự điên cuồng mới
Của con người và của cả thánh thần
Số phận tôi rung lên
Giữa thanh kiếm chết người của Ajax
Và người nào đấy có tên là Salamis
Đã đưa tôi đến bờ biển này đây.
Vầng trăng
Nhô lên từ biển như nữ thần Aphrodite
Vầng trăng ơi, vầng trăng che khuất
Chòm Nhân Mã, và hướng về Hồ Cáp
Tất cả đổi thay. Ở đâu sự thật?
Tôi cũng là một cung thủ trong chiến tranh
Số phận tôi là số phận người có mũi tên đi lạc.

Ôi họa mi, như người hát
Trong cái đêm trên bờ biển Proteus
Những nô lệ Spartan nghe đến mê say
Rồi họ khóc, Helen cũng trong số này!
Đấy là người mà ta tìm khắp Scamander năm ấy
Nàng ở gần sa mạc. Và khi tôi đến đấy
Nàng kêu lên: “Tất cả đều nói dối
Ta chưa từng bước lên con tàu xanh
Chưa từng đến Tơ-roa thuở chiến tranh!”

Ngực nhô cao và nắng trên mái tóc
Một thân hình cao
Bóng và nụ cười ở khắp mọi nơi
Trên vai, trên đầu gối, trên đùi
Làn da trắng mịn màng và đôi mắt
Có bờ mi dài.
Nàng ở nơi bến bờ xa lắc.
Thế còn ở Tơ-roa?
Ở Tơ-roa chỉ có bóng ma.
Paris nằm trên giường với bóng
Tựa như ôm con người sống động
Thế mà trong suốt mười năm
Chúng ta chém giết nhau và chết vì Helen.

Ôi Hy Lạp đau thương
Bao nhiêu máu xương người đổ xuống
Trên ruộng đồng, trên biển
Bao nhiêu linh hồn
Như trong cối xay lúa
Đầu rơi máu chảy thành sông
Vì một điều gì đấy trống không
Hay vì loài bướm
Vì cái gì trống rỗng, vì Helen.
Đâu rồi người anh em của tôi?
Chim họa mi, họa mi đâu rồi
Đâu là Thần, đâu không phải Thần, điều gì ở giữa?

“Ở Platres chim họa mi không cho bạn ngủ”

Con chim buồn thương
Bay về đảo Síp dạt dào sóng vỗ
Gợi cho tôi một nỗi nhớ quê hương
Và tôi hòa mình vào câu chuyện cổ
Nếu đó là sự thật và những đồng hương
Sẽ không còn rơi vào bẫy của thánh thần
Của những câu chuyện cổ
Nếu đó là sự thật và sau nhiều năm
Sẽ có một Teucer nào đó
Hoặc một Ajax, Hecuba, một Priam
Hoặc một người nào không tuổi không tên
Mà người này đã từng
Thấy Scamander xác người chất đống
Và khi người ta mang tin đến
Rằng bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu cuộc đời
Đã rơi vào vực thẳm
Chỉ vì một cái gì trống rỗng, một Helen.
_________
*Bài thơ dựa trên câu chuyện rút ​​từ bi kịch “Helen” của Euripides. Teucer, em trai của Ajax, là một cung thủ xuất sắc trong trận Tơ-roa nhưng Telamon, cha của Ajax và Teucer, thất vọng trước cái chết của một người con trai (Ajax, không thể  chịu nổi cảnh tòa đã không xử cho ông được hưởng chiến lợi phẩm của Achilles mà đã trao cho Odysseus, trở nên điên rồ và giết hết bầy cừu của dân Achaea, nghĩ rằng giết các nhà lãnh đạo, đến khi bình tĩnh lại, không thể chịu được sự xấu hổ đã tự tử bằng cách gieo mình vào thanh kiếm của mình). Telamon đã đuổi Teucer đi lưu đày. Apollo ra lệnh cho Teucer đi đến Síp và thành lập một thành phố, gọi theo tên thành phố quê hương là Salamis. Trên đường đến Síp Teucer đi lạc sang Ai Cập, ở vùng đồng bằng sông Nile, nơi đã từng sống Proteus (mà nhiều thế kỷ sau đó sẽ lập nên thành phố Alexandria) - Homer coi Proteus là thần biển, Euripides gọi ông là một vị vua khôn ngoan và tĩnh lặng, các vị thần đã mang Helen sang giấu ở đấy trong suốt cuộc chiến Tơ-roa. Teucer gặp Helen và biết rằng ở Troa chỉ có bóng ma của nàng. Tất cả những tên riêng khác đều là những nhân vật rất nổi tiếng trong Thần thoại Hy Lạp nên chúng tôi không chú thích ở đây.  


ΕΛΕΝΗ

ΤΕΥΚΡΟΣ ... ες γην εναλίαν Κύπρον ου μ' εθέσπισεν
οικείν Απόλλων, όνομα νησιωτικόν
Σαλαμίνα θέμενον της εκεί χάριν πάτρας.
..............................................................
ΕΛΕΝΗ: Ουκ ήλθον ες γην Τρωάδ' , αλλ' είδωλον ήν.
.............................................................
ΑΓΓΕΛΟΣ: Τι φής;
Νεφέλης άρ' άλλως είχομεν πόνους πέρι;

ΕΥΡΙΠΙΔΗΣ,ΕΛΕΝΗ

"Τ' αηδόνια δε σ' αφήνουνε να κοιμηθείς στις Πλάτρες''.

Αηδόνι ντροπαλό, μες στον ανασασμό των φύλλων,
σύ που δωρίζεις τη μουσική δροσιά του δάσους
στα χωρισμένα σώματα και στις ψυχές
αυτών που ξέρουν πως δε θα γυρίσουν.
Τυφλή φωνή, που ψηλαφείς μέσα στη νυχτωμένη μνήμη
βήματα και χειρονομίες. δε θα τολμούσα να πω φιλήματα.
και το πικρό τρικύμισμα της ξαγριεμένης σκλάβας.

"Τ' αηδόνια δε σ' αφήνουνε να κοιμηθείς στις Πλάτρες".

Ποιες είναι οι Πλάτρες; Ποιος το γνωρίζει τούτο το νησί;
Έζησα τη ζωή μου ακούγοντας ονόματα πρωτάκουστα:
καινούργιους τόπους, καινούργιες τρέλες των ανθρώπων
ή των θεών.
η μοίρα μου που κυματίζει
ανάμεσα στο στερνό σπαθί ενός Αίαντα
και μιαν άλλη Σαλαμίνα
μ' έφερε εδώ σ' αυτό το γυρογιάλι.
Το φεγγάρι
βγήκε απ' το πέλαγο σαν Αφροδίτη.
σκέπασε τ' άστρα του Τοξότη, τώρα πάει να 'βρει
την καρδιά του Σκορπιού, κι όλα τ' αλλάζει.
Πού είναι η αλήθεια;
Ήμουν κι εγώ στον πόλεμο τοξότης.
το ριζικό μου, ενός ανθρώπου που ξαστόχησε.

Αηδόνι ποιητάρη,
σαν και μια τέτοια νύχτα στ' ακροθαλάσσι του Πρωτέα
σ' άκουσαν οι σκλάβες Σπαρτιάτισσες κι έσυραν το θρήνο,
κι ανάμεσό τους-ποιος θα το 'λεγε-η Ελένη!
Αυτή που κυνηγούσαμε χρόνια στο Σκάμαντρο.
Ήταν εκεί, στα χείλια της ερήμου. την άγγιξα, μου μίλησε:
"Δεν είν' αλήθεια, δεν είν' αλήθεια" φώναζε.
"Δεν μπήκα στο γαλαζόπλωρο καράβι.
Ποτέ δεν πάτησα την αντρειωμένη Τροία".

Με το βαθύ στηθόδεσμο, τον ήλιο στα μαλλιά, κι αυτό
το ανάστημα
ίσκιοι και χαμόγελα παντού
στους ώμους στους μηρούς στα γόνατα.
ζωντανό δέρμα, και τα μάτια
με τα μεγάλα βλέφαρα,
ήταν εκεί, στην όχθη ενός Δέλτα.
Και στην Τροία;
Τίποτε στην Τροία-ένα είδωλο.
Έτσι το θέλαν οι θεοί.
Κι ο Πάρης, μ' έναν ίσκιο πλάγιαζε σα να ήταν πλάσμα
ατόφιο.
κι εμείς σφαζόμασταν για την Ελένη δέκα χρόνια .

Μεγάλος πόνος είχε πέσει στην Ελλάδα.
Τόσα κορμιά ριγμένα
στα σαγόνια της θάλασσας στα σαγόνια της γης.
τόσες ψυχές
δοσμένες στις μυλόπετρες, σαν το σιτάρι.
Κι οι ποταμοί φουσκώναν μες στη λάσπη το αίμα
για ένα λινό κυμάτισμα για μια νεφέλη
μιας πεταλούδας τίναγμα το πούπουλο ενός κύκνου
για ένα πουκάμισο αδειανό, για μιαν Ελένη.
Κι ο αδερφός μου;
Αηδόνι αηδόνι αηδόνι,
τ' είναι θεός; τι μη θεός; και τι τ' ανάμεσό τους;

"Τ' αηδόνια δε σ' αφήνουνε να κοιμηθείς στις Πλάτρες".

Δακρυσμένο πουλί,
στην Κύπρο τη θαλασσοφίλητη
που έταξαν για να μου θυμίζει την πατρίδα,
άραξα μοναχός μ' αυτό το παραμύθι,
αν είναι αλήθεια πως αυτό είναι παραμύθι,
αν είναι αλήθεια πως οι άνθρωποι Δε θα ξαναπιάσουν
τον παλιό δόλο των θεών.
αν είναι αλήθεια

πως κάποιος άλλος Τεύκρος, ύστερα από χρόνια,
ή κάποιος Αίαντας ή Πρίαμος ή Εκάβη
ή κάποιος άγνωστος, ανώνυμος που ωστόσο
είδε ένα Σκάμαντρο να ξεχειλάει κουφάρια,
δεν το 'χει μες στη μοίρα του ν' ακούσει
μαντατοφόρους που έρχουνται να πούνε
πως τόσος πόνος τόση ζωή
πήγαν στην άβυσσο
για ένα πουκάμισο αδειανό για μιαν Ελένη.



MÀN SƯƠNG*

“Say it with a Ukulele…”

“Hãy hát lên đàn Ukulele…”
Từ máy hát vang lên lời hát cũ
Em yêu ơi, anh biết hát bài gì
Để cho em hiểu rằng anh buồn bã.

Kẻ hành khất chơi cây đàn phong cầm
Tay chạm lên phím đàn rất cẩn trọng –
Hãy đi xuống đây những thiên thần
Nhưng thiên thần ngồi khóc trong lo lắng.

Thiên thần đã sẵn sàng đi
Nhưng mặt đất mây che kín
Ta nghèo khó đến ngày cuối tận
Bởi thiên thần quên đến với ta.

Cuộc đời ta lạnh lùng như biển
Sống ra sao ư? Như ở trong sương
Chìm đắm những linh hồn
Như đá chìm trong biển.

Cây run rẩy tựa san hô
Màu xanh trở thành màu xám
Đang ngủ yên những chiếc xe thồ
Từ lâu trên mặt đất quên lãng.

“Hãy hát lên đàn Ukulele…”
Lời ca không còn sức mạnh nữa
Tình yêu ơi, đâu ngôi đền của em muôn thuở?
Sao nơi này ta lạnh lẽo nhường kia!

Giá mà cuộc đời đi theo đường thẳng
Anh và em không biết đến ưu phiền
Nhưng trò chơi số phận
Bước ngoặt trong đời thay đổi triền miên.

Đợi đến khi nào? Không ai biết
Lửa cháy lên trong sương khói hoàng hôn
Trong màn sương ta đánh mất con đường
Giữa hai ngọn lửa tâm hồn đau thắt.

Số kiếp ta. Đâu hạnh phúc chúng mình
Ngày chết dần trong vương quốc đêm tối
Xung quanh bóng đêm. Em hãy đi tìm
Hãy đi tìm cho con đường ngắn lại!

“Hãy hát lên đàn Ukulele…”
Những móng tay em ánh lên màu đỏ
Dưới ánh sáng sao trời anh bỗng nhớ
Vật trang sức bằng đá muộn màng kia.

London, Giáng sinh 1924.
__________________

* Ukulele: Đàn ghi ta Hawaii.




FOG

Say it with a ukulele

«Πες της το μ’ ένα γιουκαλίλι…»
γρινιάζει κάποιος φωνογράφος·
πες μου τι να της πω, Χριστέ μου,
τώρα συνήθισα μονάχος.

Με φυσαρμόνικες που σφίγγουν
φτωχοί μη βρέξει και μη στάξει
όλο κι κράζουν τους αγγέλους
κι είναι οι αγγέλοι τους μαράζι.

Κι οι αγγέλοι ανοίξαν τα φτερά τους
μα χάμω χνότισαν ομίχλες
δόξα σοι ο θεός, αλλιώς θα πιάναν
τις φτωχιές μας ψυχές σαν τσίχλες.

Κι είναι η ζωή ψυχρή ψαρίσια
-Έτσι ζεις; - Ναι! Τι θες να κάνω·
τόσοι και τόσοι είναι οι πνιμένοι
κάτω στις θάλασσας τον πάτο.

Τα δέντρα μοιάζουν με κοράλλια
που κάπου ξέχασαν το χρώμα
τα κάρα μοιάζουν με καράβια
που βούλιαξαν και μείναν μόνα…

«Πες της το μ’ ένα γιουκαλίλι…»
Λόγια για λόγια, κι άλλα λόγια;
Αγάπη πού `ναι η εκκλησιά σου
βαρέθηκα πια στα μετόχια

Α!, να ’ταν η ζωή μας ίσια
πώς θα την πέρναμε κατόπι
μα αλλιώς η μοίρα το βουλήθη
πρέπει να στρίψεις σε μια κόχη.

Και ποια είν’ η κόχη; Ποιος την ξέρει;
Τα φώτα φέγγουνε τα φώτα
άχνα! δε μας μιλούν οι πάχνες
κι έχουμε την ψυχή στα δόντια.

Τάχα, παρηγοριά θα βρούμε;
Η μέρα φόρεσε τη νύχτα
όλα είναι νύχτα, όλα είναι νύχτα
κάτι θα βρούμε ζήτα- ζήτα…

«Πες της το μ’ ένα γιουκαλίλι…»
Βλέπω τα κόκκινά της νύχια
μπρος στη φωτιά πως θα γυαλίζουν
και τη θυμάμαι με το βήχα.

Λονδίνο, Χριστούγεννα 1924


Xem thêm:

http://cacnhathonobel.blogspot.com/