Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

Thơ tình Carl Sandburg

 

BA LỜI


Ngày còn bé tôi từng nghe ba lời
Cả nghìn người Pháp chết trên đường phố
Vì: Tự do, Bình đẳng và Bác ái
Tôi hỏi: vì sao họ chết vì lời.

Tôi lớn lên, những chú bác râu đầy
Bảo tôi rằng có ba lời quan trọng:
Mẹ, Gia đình, Bầu trời – còn khi người lớn
Người đeo huân chương bảo: Sự bất diệt, Bổn phận, Chúa Trời
Họ nói ba lời này mà xúc động khôn nguôi.

Trên chiếc đồng hồ lớn ngày tháng nối đuôi
Những số phận người, bỗng nhiên chuyển động
Từ đất nước Nga vô cùng rộng lớn
Binh lính, thợ thuyền không sợ chết xông lên
Vì: Đất đai, vì Cơm áo, Hòa bình.

Tôi thấy chàng thủy thủ Mỹ, trong một lần
Cùng cô gái trẻ, nàng ngồi trên đầu gối
Chàng thủy thủ bảo: có ba lời cần nói
Cho anh xin ít trứng, ít giăm bông
Và gì nữa? – Và một chút tình
Em yêu của anh!”


Threes

I was a boy when I heard three red words
a thousand Frenchmen died in the streets
for: Liberty, Equality, Fraternity--I asked
why men die for words.

I was older; men with mustaches, sideburns,
lilacs, told me the high golden words are:
Mother, Home, and Heaven--other older men with
face decorations said: God, Duty, Immortality
--they sang these threes slow from deep lungs.

Years ticked off their say-so on the great clocks
of doom and damnation, soup, and nuts: meteors flashed
their say-so: and out of great Russia came three
dusky syllables workmen took guns and went out to die
for: Bread, Peace, Land.

And I met a marine of the U.S.A., a leatherneck with a girl on his knee
for a memory in ports circling the earth and he said: Tell me how to say
three things and I always get by--gimme a plate of ham and eggs--how
much--and--do you love me, kid?




CỎ


Xác chất đống ở Austerlitz và Waterloo(1)
Chôn xuống mộ, và hãy cho tôi làm việc
Tôi là cỏ: tôi che lấp hết.

Và xác chất đống ở Gettysburg
Và xác chất đống ở Ypres, Verdun
Chôn xuống mộ, và hãy cho tôi làm việc.
Hai năm, mười năm, và hành khách hỏi người soát vé:
Đây là chỗ nào?
Chúng ta đang ở đâu?

Tôi là cỏ
Hãy cho tôi làm việc.

_________________


(1)Austerlitz (nay là Slavkov, cộng hòa Séc) – nơi từng diễn ra trận đánh nổi tiếng của Napoleon năm 1805.
Waterloo – thành phố ở Bỉ nơi diễn ra trận đánh nổi tiếng của Napoleon năm 1815.
Gettysburg – thành phố ở Mỹ năm 1863 ở đây xảy ra một trận đánh lớn trong thời kì Nội chiến.
Ypress – thành phố ở Bỉ, nơi xảy ra một trận đánh lớn trong chiến tranh Thế giới 1.
Verdun – thành phố ở Pháp, nơi diễn ra trận đánh giữa Đức và Pháp trong chiến tranh Thế giới 1.


Grass

Pile the bodies high at Austerlitz and Waterloo,
Shovel them under and let me work
          I am the grass; I cover all.

And pile them high at Gettysburg
And pile them high at Ypres and Verdun.
Shovel them under and let me work.
Two years, ten years, and passengers ask the concuctor:
            What place is this?
             Where are we now?


XE LỬA TỐC HÀNH


Tôi đi trên xe lửa tốc hành, con tàu của niềm tự hào dân tộc.

Con tàu lướt trên thảo nguyên, qua khói sương, mười lăm toa với cả nghìn hành khách.

(Tất cả các toa tàu rồi sẽ thành một chùm sắt gỉ và tất cả hành khách cười trong toa ăn, toa ngủ rồi sẽ trở thành tro).

Tôi hỏi một người đàn ông trong toa hút thuốc: đi về đâu, và người ấy trả lời: “Omaha”.


Limited

I am riding on a limited express, one of the crack trains
of the nation.
Hurtling across the prairie into blue haze and dark air
go fifteen all-steel coaches holding a thousand people.
(All the coaches shall be scrap and rust and all the men
and women laughing in the diners and sleepers shall
pass to ashes.)
I ask a man in the smoker where he is going and he
answers: "Omaha."


Thơ tình Ogden Nash

 


 LỜI GỬI NHỮNG ÔNG CHỒNG

Giữ cuộc hôn nhân của bạn cho đầy đặn
Với tình yêu trong chiếc cốc yêu thương
Khi bạn sai lầm hãy biết ăn năn
Còn khi đúng hãy biết cách im lặng.

A Word To Husbands

To keep your marriage brimming
  With love in the loving cup,
  Whenever you're wrong, admit it;
  Whenever you're right, shut up.


TRÍ TUỆ CỦA CHÚA

Chúa Trời khôn ngoan đã tạo ra loài ruồi quấy nhiễu
Nhưng Ngài đã quên nói với chúng ta là tại vì sao.

The Fly

God in his wisdom made the fly
And then forgot to tell us why.

 
CÁC CÔ VÀ CÁC CẬU

Các cô và các cậu
Hãy ra ngoài đồng chơi
Giờ mặt trăng đang chiếu
Sáng tỏ như ban ngày.

Nếu mặt trăng đang chiếu
Sáng tỏ như ban ngày
Thì chúng ta ở lại
Sân nhà và cùng chơi.

Boys and girls

Boys and girls,
Come out to play,
The moon is shining
Bright as day.

If the moon is shining
Bright as day,
We thing that we’ll
Stay and play.


TÌNH DÊ

Dê đực Bill là một chàng trai đẹp
Nhưng mùi của hắn ta khó chịu vô cùng
Dê cái Nanny là cô gái dễ thương
Hy vọng về mùi cô không cảm giác.

The Goat

The Bill goat’s a handsome gent
But has a most far-reaching scent.
The Nanny goat is quite a belle
Let’s hope she has no sense of smell.


BẠCH TUỘC

Ơi bạch tuộc hãy nói
Đâu chân và đâu tay?
Nếu tôi là bạch tuộc
Gọi tôi bằng “chúng tôi”. 

The Octopus

Tell me, O Octopus, I begs,
Is those things are arms or legs?
I marvel at thee, Octopus;
If I were thou, I’d call me Us.

THIÊN NHIÊN BIẾT RÕ

Tôi không biết chính xác con người từ cái thời Hector ngày xưa ngày xửa ấy
Nhưng tôi tin rằng người ta vẫn bắt đầu mỗi ngày bằng việc sáng ra thức dậy.
Vâng, con người đã ngủ rồi thức dậy hàng trăm năm
Trong cung điện, nhà tù hay trong toa xe lửa hạng sang.
Người thượng cổ cần thức dậy trước khi loài khủng long thức dậy
Verdi* cần thức dậy trước khi viết ra vở “Anvil Chorus” bất tử ấy
Alexander** cần thức dậy trước khi tiếp tục lên đường chinh phục đất đai
Ngay cả Rip Van Winkle*** thức dậy trèo lên núi rồi sau đó mới lại ngủ say.
Vâng, loài hoa bắt nguồn từ hoa và loài chim kia thì cũng vậy
Còn con người muôn đời nay, mỗi ngày đêm vẫn cần ít nhất một lần thức dậy
Không cần bắt ép loài chim hót như chim, thay vì như chuột, vì rằng chim có nguồn gốc từ chim
Và vì rằng hoa có nguồn gốc từ hoa, không cần bắt ép chúng tỏa mùi hương thay mùi cao su cháy hay xà phòng
Nhưng con người đã bao thế hệ xưa nay vẫn thường xuyên sống cả đời trên đệm lông chim hay nệm cỏ
Bởi vì không biết cách thức dậy mỗi buổi sáng theo lương tâm của mình hay ai đó, đồng hồ báo thức hay người phục vụ.
Còn tôi rút ra một kết luận rõ ràng – như đã nói từ đầu
Nếu như Thiên nhiên chỉ định con người thức dậy mỗi buổi sáng, thì người ta sẽ thức dậy tự nhiên chứ chẳng cần phải ép buộc gì đâu.
____________

*Verdi, Giuseppe (1813 – 1901) – nhạc sĩ Italia.
**Alexander Đại đế (356 – 323 tr. CN) – Hoàng đế Macedonia, vị tướng lừng danh thời cổ đại.
***Rip van Winkle – nhân vật trong truyện cùng tên của nhà văn Washington Irving (1783 – 1859), người đã ngủ trong gần hai mươi năm.

Nature Knows Best

I don’t know exactly how long ago Hector was a pup.
But it was quite long ago, and even then people used to have to start their day by getting up.
Yes, people have been getting up for centuries,
They have been getting up in palaces and Pullmans and penitentiaries.
The caveman had to get up before he could go out and track the bronto-saurus,
Verdi had to get up before he could sit down and compose the Anvil Chorus.
Alexander had to get up before he could go around being dominant,
Even Rip Van Winkle had to get up from one sleep before he could climb the mountain and encounter the sleep which has made him prominent.
Well, birds are descended from birds and flowers are descended from flowers,
And human beings are descended from generation after generation of ancestors who got up at least once every twenty-four hours.
And because birds are descended from birds they don’t have to be forced to sing like birds, instead of squeaking like rats,
And because flowers are descended from flowers they don’t have to be forced to smell like flowers, instead of like burning rubber or the Jersey flats.
But you take human beings, why their countless generations of ancestors who were always arising might just as well have spent all their lives on their mattresses or pallets,
Because their descendants haven’t inherited any talent for getting up at all, no, every morning they have to be forced to get up either by their own conscience or somebody else’s, or alarm clocks or valets.
Well, there is on obvious conclusion that I have always held to,
Which is that if Nature had really intended human beings to get up, why they would get up naturally and wouldn’t have to be compelled to.


Thơ tình Langston Hughes

 

ĐỜI VẪN ĐẸP SAO


Anh đi ra bờ sông
Ngồi lên mỏm đá.
Không cần nghĩ suy gì cả
Anh nhảy xuống sông.

Anh lặn xuống nhiều lần
Cứ ngỡ là anh chìm nghỉm!
Giá mà dòng nước ấm
Và cạn hơn – lòng sông.

Nhưng dòng nước
Chảy trên sông
Lạnh vô cùng!


Thang máy anh bước vào
Mười sáu tầng nhà cao
Anh nhớ em, và nghĩ:
Sẽ không nhảy xuống đâu!

Một nỗi buồn vơi đầy
Anh muốn kêu lên ầm ĩ
Giá mà không cao như thế
Thì anh nhảy xuống chết ngay!

Nhưng mà cao
Nhà cao lắm!
Thật là cao!


Giờ anh vẫn sống mà em
Và anh vẫn còn sống nữa.
Có để làm gì cơ chứ
Sinh ra rồi chết vì tình.

Em có nghe tiếng anh kêu
Và có thấy anh đang khóc
Nhưng mà anh không muốn chết
Anh không muốn chết, em yêu!

Đời vẫn đẹp sao!
Ngọt ngào như rượu!
Đời vẫn đẹp sao!


Life is fine

I went down to the river,
I set down on the bank.
I tried to think but couldn't,
So I jumped in and sank.

I came up once and hollered!
I came up twice and cried!
If that water hadn't a-been so cold
I might've sunk and died.

But it was
Cold in that water!
It was cold!

I took the elevator
Sixteen floors above the ground.
I thought about my baby
And thought I would jump down.

I stood there and I hollered!
I stood there and I cried!
If it hadn't a-been so high
I might've jumped and died.

But it was
High up there!
It was high!

So since I'm still here livin',
I guess I will live on.
I could've died for love--
But for livin' I was born

Though you may hear me holler,
And you may see me cry--
I'll be dogged, sweet baby,
If you gonna see me die.

Life is fine!
Fine as wine!
Life is fine!


NHỮNG ỐNG NHỔ BẰNG ĐỒNG


Rửa những ống nhổ, này chàng trai!
Detroit,
Chicago,
Atlantic City,
Palm Beach.
Rửa những ống nhổ đờm
Ống khói bếp trong khách sạn
Chùi khói thuốc ở ngoài tiền sảnh
Đổ những ống nhổ đờm
Đấy là cuộc đời của con.
Này, chàng trai!
Năm xu
Một hào
Một đô
Hai đô một ngày.
Này, chàng trai!
Năm xu
Một hào
Một đô
Hai đô
Để mua giày cho bé
Để trả tiền thuê nhà
Để chủ nhật đi nhà thờ
Ôi lạy chúa!
Nhà thờ và con trẻ
Chủ nhật và phụ nữ
Pha trộn đồng năm xu
Đồng đô và lau chùi ống nhổ
Và trả tiền thuê nhà
Này, chàng trai!
Cái bát đồng tau sáng ngời dâng cho Chúa.
Bát đòng sáng loáng như cái chũm chọe
Của các cô vũ nữ vua David ngày xưa
Như chén vàng của vua Solomon ngày trước.
Này, chàng trai!
Ống nhổ sạch đặt lên làm bàn thờ Chúa
Ống nhổ sạch bóng và sáng ngời
Ta có thể trả cho những cái này
Hãy đi lại đây, chàng trai!


Brass spittoons

Clean the spittoons, boy.
Detroit,
Chicago,
Atlantic City,
Palm Beach.
Clean the spittoons.
The steam in hotel kitchens,
And the smoke in hotel lobbies,
And the slime in hotel spittoons:
Part of my life.
Hey, boy!
A nickel,
A dime,
A dollar,
Two dollars a day.
Hey, boy!
A nickel,
A dime,
A dollar,
Two dollars
Buy shoes for the baby.
House rent to pay.
Gin on Saturday,
Church on Sunday.
My God!
Babies and gin and church
And women and Sunday
All mixed with dimes and
Dollars and clean spittoons
And house rent to pay.
Hey, boy!
A bright bowl of brass is beautiful to the Lord.
Bright polished brass like the cymbals
Of King David’s dancers,
Like the wine cups of Solomon.
Hey, boy!
A clean spittoon on the altar of the Lord.
A clean bright spittoon all newly polished—
At least I can offer that.
Com’mere, boy!


LAO CÔNG


Tôi phải nói
Vâng, thưa ngài!
Với ông trong mọi ngày.
Vâng, thưa ngài!
Vâng, thưa ngài!
Suốt cả cuộc đời tôi
Chạy lên ngọn núi lớn
Của vâng, thưa ngài!

Nhà giàu da trắng
Giành cả thế giới này
Cho phép tôi
Xin được đánh giày
Vâng, thưa ngài!


Porter

I must say
Yes, sir,
To you all the time.
Yes, sir!
Yes, sir!
All my days
Climbing up a great big mountain
Of yes, sirs!

Rich old white man
Owns the world
Gimme yo' shoes
To shine
Yes, sir!


Thơ tình Edward Cummings

 


PLATO NÓI(1)
(plato told)

plato nói
với anh; anh không
tin (jesus

nói với anh; anh
không tin)

lão

tử
dĩ nhiên nói
với anh, và tướng
(vâng

quả vậy)
sherman;
còn nói nhiều hơn
(anh tin
hoặc

không) bạn
nói với anh; tôi nói
với anh; chúng ta nói với anh
anh không tin, không

thưa ngài) cuối cùng
mảnh đạn nhật
làm từ sắt

của đường hầm số sáu
rơi trên đầu anh; mới nói

được với anh.
________

(1)Bài thơ này mới xem qua, ta ngỡ là một trò chơi ngộ nghĩnh. Trên thực tế, đây là câu chuyện buồn về một người lính Mỹ. Anh ta không tin, hoặc có thể, chưa hiểu lắm những học thuyết của Plato, Lão Tử, Giê-su nhưng có một điều còn thuyết phục hơn học thuyết của các nhà tư tưởng, nói được với anh ta về cái Thiện và cái Ác. Đó là “a nipponized bit of the old sixth avenue el”, nghĩa là mảnh đạn Nhật, làm từ sắt của đường hầm số Sáu (ở New York). Những năm 30 thế kỉ XX người Mỹ bán sắt đường hầm này thành sắt vụn cho người Nhật. Trong chiến tranh, đạn của Nhật làm từ sắt Mỹ rơi lên đầu lính Mỹ. 

Plato told

Plato told

him: he couldn't
believe it (Jesus

told him; he
wouldn't believe

it) Lao

Tsze

certainly told
him, and general

(yes

mam)
sherman;
and even
(believe it
or
not) you
told him: i told
him; we told him
(he didn't believe it, no

sir) it took
a nipponized bit of
the old sixth

avenue
el; in the top of his head: to tell


him



SAM LÀ MỘT CON NGƯỜI(1)
(rain or hail…)

mưa dông hay mưa đá
sam làm xong mới thôi
làm những gì có thể
khi còn sống trên đời

sam là một con người

chắc khỏe như cây cầu
vạm vỡ như con gấu
như con chuột – nhanh nhảu
cũng giống như anh thôi

(tuyết hay là mặt trời)

đi về cõi hư vô
như tất cả ông vua
còn anh rồi sẽ đọc
và chim sẽ thổn thức

chim đớp muỗi nhớ về

con tim từng rộng mở
như thế giới mênh mông
có chỗ cho thiên thần
có chỗ cho quỉ sứ

vâng, thưa ngài đúng thế

điều gì sẽ tốt hơn
hay điều gì xấu hơn
không một ai có thể
biết được cho rõ rành

(không một ai có thể)

sam là một con người
cười xếch đến mang tai
làm việc như quỉ sứ
khi còn sống trên đời

yên giấc nhé, sam ơi
________
(1)Sam là nhân vật có thật, là hàng xóm ở trang trại của Cummings.


Rain or hail...

rain or hail
sam done
the best he kin
till they digged his hole

:sam was a man

stout as a bridge
rugged as a bear
slickern a weazel
how be you

(sun or snow)

gone into what
like all them kings
you read about
and on him sings

a whippoorwill;

heart was big
as the world aint square
with room for the devil
and his angels too

yes, sir

what may be better
or what may be worse
and what may be clover
clover clover

(nobody'll know)

sam was a man
grinned his grin
done his chores
laid him down.

Sleep well


Thơ tình William Carlos Williams

 

LỜI BIỆN HỘ

Tại vì sao ngày hôm nay tôi viết?

Đó là vẻ đẹp
những gương mặt khủng khiếp
của những kẻ vô danh
gợi cho tôi cảm xúc:

những phụ nữ da đen
ngày làm việc của những công nhân
già cả và giàu kinh nghiệm
trở về nhà rất muộn
trong bộ quần áo nát nhàu
những gương mặt của họ giống như
cây sối Florentine xưa cũ.

Và nữa

Những bộ mặt của
Quí vị gây cảm hứng cho tôi –
những con người –
đáng nể nhưng
đó là chuyện khác.


Apology

Why do I write today?

The beauty of
the terrible faces
of our nonentites
stirs me to it:

colored women
day workers—
old and experienced—
returning home at dusk
in cast off clothing
faces like
old Florentine oak.

Also

the set pieces
of your faces stir me—
leading citizens—
but not
in the same way.



CHÂN DUNG NGƯỜI VÔ SẢN

Một người phụ nữ to lớn đầu trần
mặc yếm

Với mái tóc chải bóng
đứng ở bên đường

một chân mang bít tất phụ nữ
chạm đến lề đường

Chiếc giày nàng cầm trong tay. Và nhìn
vào trong rất chăm chú

Người phụ nữ lôi cái đế giày bằng giấy
muốn tìm chiếc đinh

Đã từ lâu làm đau chân nàng


Proletarian Portrait

A big young bareheaded woman
in an apron

Her hair slicked back standing
on the street

One stockinged foot toeing
the sidewalk

Her shoe in her hand. Looking
intently into it

She pulls out the paper insole
to find the nail

That has been hurting her

****
CHIẾC XE BA GÁC MÀU ĐỎ


quá nhiều thứ
phụ thuộc

vào chiếc xe ba gác
màu đỏ

che phủ bới
nước mưa

bên cạnh đàn gà
màu trắng.


The red wheelbarrow

so much depends
upon

a red wheel
barrow

glazed with rain
water

beside the white
chickens.


KÝ ỨC THÁNG TƯ

Bạn nói: “Tình yêu là, tình yêu là:
chiếc lá cây dương, là chùm liễu rủ
là chiếc lược của mưa của gió
là giọt nhỏ và tiếng leng keng –
những cành lá rung rinh” – Ha!
Tình không bao giờ đến những nơi này cả.


Memory Of April

You say love is this, love is that:
Poplar tassels, willow tendrils
the wind and the rain comb,
tinkle and drip, tinkle and drip-
branches drifting apart. Hagh!
Love has not even visited this country.




ĐIỀU CẦN NÓI

Anh đã ăn
những quả nho khô
lấy từ
trong tủ lạnh

những quả nho
mà em định
để dành cho bữa sáng

Tha lỗi cho anh
nho thật là ngon
thật ngọt
và thật mát.


This Is Just To Say

I have eaten
the plums
that were in
the icebox

and which
you were probably
saving
for breakfast

Forgive me
they were delicious
so sweet
and so cold


Thơ tình Henry Wadsworth Longfellow

MEZZO CAMMIN

Đến nửa đường đời, tôi để mất dấu vết
Của tháng ngày qua. Xúc cảm ở đâu rồi
Đâu khát khao thời tuổi trẻ, để xây
Một lâu đài của bài ca cao vút.

Đâu phải biếng lười và phải đâu hạnh phúc
Đâu mê say, yêu tha thiết nồng nàn
Nhưng nỗi buồn có lẽ tự lúc sinh
Là lo lắng, là tai ương, chết chóc.

Từ nửa đường lên đồi, tôi nhìn thấy
Quá khứ dưới chân, tất cả tối mù
Và thành phố mịt mờ trong lửa khói

Chỉ tiếng kêu than, niềm vui chẳng thấy
Nghe trên đầu tôi, trong ngọn gió thu
Dòng thác Chết ầm ầm trên cao ấy*.
_____________
*Đây là bài Sonnet tự thuật viết năm 1842, khi nhà thơ tròn 35 tuổi – một nửa đường đời theo Dante. Tên gọi của bài thơ trích từ dòng thơ đầu của “Thần khúc”: “Nel mezzo del cammin di nostra vita…”(Con đường đời tôi đã đi đến nửa… - bản dịch của Hồ Thượng Tuy). Mezzo cammin – nửa đường, nghĩa là nửa đường đời.


Mezzo cammin

Half of my life is gone, and I have let
The years slip from me and have not fulfilled
The aspiration of my youth, to build
Some tower of song with lofty parapet.

Not indolence, nor pleasure, nor the fret
Of restless passions chat would not be stilled,
But sorrow, and a care that almost killed,
Kept me from what I may accomplish yet;

Though, half way up the hill, I see the Past
Lying beneath me with its sounds and sights,--
A city in the twilight dim and vast,

With smoking roofs, soft bells, and gleaming lights.--
And hear above me on the autumnal blast
The cataract of Death far thundering from the heights.
   

CAO HƠN

(Excelsior!)


Trên con đường bóng đêm và băng giá
Một chàng trai đi lên núi An-pơ
Mặc tuyết rơi, trong tay một lá cờ
Với dòng chữ đề vô cùng xa lạ:
Cao hơn!

Vầng trán mang nét buồn vì suy nghĩ
Nhưng ánh mắt sắc như một lưỡi gươm
Và nghe như tiếng kèn bạc vang lên
Một ngôn ngữ không ai hay biết cả:
Cao hơn!

Những ánh đèn trong những nhà hạnh phúc
Bếp lửa gia đình ấm áp gọi mời
Nhưng bóng ma và băng giá ngoài trời
Bờ môi chàng như thì thào: cứ mặc
Cao hơn!

Một ông già bảo chàng: “Không đi được!
Nơi ấy bóng đêm, tuyết lở, sông băng
Chảy cuồn cuộn và rộng lớn mênh mông!”
Nhưng lại vẫn câu trả lời dứt khoát:
Cao hơn!

Cô gái gọi: “Em xin chàng dừng bước
Hãy áp mái đầu trên ngực của em!”
Trong đôi mắt chàng ánh sáng màu xanh
Nhưng câu đáp lại như lời thổn thức:
Cao hơn!

“Hãy coi chừng những cành thông khô đấy!
Và sông băng, tuyết lở hãy coi chừng!”
Một người nông dân kêu lên với chàng
Nhưng giọng trả lời từ trên cao ấy:
Cao hơn!

Ở đèo Sait-Bernard chàng gặp nạn
Khi đi lên cao, vào buổi cầu kinh
Những lời cầu nguyện dường như lặng ngừng
Một giọng nói giữa không trung vang vọng:
Cao hơn!

Xác kẻ du hành vùi trong tuyết phủ
Chỉ chó tìm ra sau một thời gian
Vẫn lá cờ nguyên vẹn trong tay chàng
Với dòng chữ đề vô cùng xa lạ:
Cao hơn!

Giờ ở đó, giữa lạnh lùng màu xám
Chàng yên giấc với vẻ đẹp tuyệt vời
Từ bầu trời sáng sủa và xa xôi
Một giọng nói như ngôi sao rụng xuống:
Cao hơn!
_________
*Bài thơ này lần đầu in trong tập “Ballads and Other Poems” năm 1842 nổi tiếng như một lời tuyên ngôn vì những lý tưởng cao cả. Sau đó, bài thơ này trở thành đối tượng của vô vàn những bài thơ phóng tác và nhại theo nó.
Excelsior! (tiếng Latinh) – Cao hơn! (Cao hơn nữa!). Trên biểu tượng của bang New York có dòng chữ này.


Excelsior

The shades of night were falling fast,
As through an Alpine village passed
A youth, who bore, 'mid snow and ice,
A banner with the strange device,
Excelsior!

His brow was sad; his eye beneath,
Flashed like a falchion from its sheath,
And like a silver clarion rung
The accents of that unknown tongue,
Excelsior!

In happy homes he saw the light
Of household fires gleam warm and bright;
Above, the spectral glaciers shone,
And from his lips escaped a groan,
Excelsior!

"Try not the Pass!" the old man said:
"Dark lowers the tempest overhead,
The roaring torrent is deep and wide!
And loud that clarion voice replied,
Excelsior!

"Oh stay," the maiden said, "and rest
Thy weary head upon this breast!"
A tear stood in his bright blue eye,
But still he answered, with a sigh,
Excelsior!

"Beware the pine-tree's withered branch!
Beware the awful avalanche!"
This was the peasant's last Good-night,
A voice replied, far up the height,
Excelsior!

At break of day, as heavenward
The pious monks of Saint Bernard
Uttered the oft-repeated prayer,
A voice cried through the startled air,
Excelsior!

A traveller, by the faithful hound,
Half-buried in the snow was found,
Still grasping in his hand of ice
That banner with the strange device,
Excelsior!

There in the twilight cold and gray,
Lifeless, but beautiful, he lay,
And from the sky, serene and far,
A voice fell, like a falling star,
Excelsior!



BẢN THÁNH CA CỦA CUỘC ĐỜI

(A Psalm Of Life)


Xin đừng nói bằng một giọng u buồn
Rằng cuộc đời là một giấc mơ suông!
Linh hồn chết là linh hồn thiu ngủ
Nghĩa sâu xa của đời sống còn không.

Đời là thực! Đời là một chiến công
Thân mất đi nhưng linh hồn còn mãi
“Thân cát bụi lại trở về cát bụi”
Lời trên đây không phải nói về hồn.

Không buồn khổ và cũng không hưởng lạc
Mà mục tiêu ta sống ở đời này
Vì ngày mai đẹp hơn ngày hôm nay
Cuộc đời giục ta đi về phía trước.

Nghệ thuật dài lâu, thời gian có ít
Đừng để mất trong đó một điều gì
Hãy nhớ rằng tiếng kèn của đám ma
Là tiếng tim ta liên hồi đang đập.

Trong cuộc sống nhiều chông gai thử thách
Và cuộc đời riêng ngắn ngủi, tầm thường
Chớ làm một kẻ nô lệ đáng thương
Mà anh hùng, thử thách qua trận mạc.

Đừng than khóc điều gì trong quá khứ
Hay ước ao gì đó ở tương lai
Mà hãy hành động vì ngày hôm nay
Tin sức mình, và chỉ tin ở Chúa.

Những chiến công của bao người vĩ đại
Thúc giục ta đi tiếp một con đường
Mà rồi đây trên cát của thời gian
Dấu chân mình, biết đâu, ta để lại.

Dấu chân ấy một ngày mai có thể
Giúp được những người lầm lạc đau thương
Nhìn thấy giấu chân họ sẽ vững lòng
Và khơi dậy niềm phấn khích trong họ.

Vậy thì chúng ta đứng lên hành động
Hãy tận tâm với công việc hết mình
Biết học hỏi trong lao động quang vinh
Và đợi chờ một ngày vui sẽ đến.


A psalm of life

Tell me not, in mournful numbers,
Life is but an empty dream! —
For the soul is dead that slumbers,
And things are not what they seem.

Life is real! Life is earnest!
And the grave is not its goal;
Dust thou art, to dust returnest,
Was not spoken of the soul.

Not enjoyment, and not sorrow,
Is our destined end or way;
But to act, that each to-morrow
Find us farther than to-day.

Art is long, and Time is fleeting,
And our hearts, though stout and brave,
Still, like muffled drums, are beating
Funeral marches to the grave.

In the world’s broad field of battle,
In the bivouac of Life,
Be not like dumb, driven cattle!
Be a hero in the strife!

Trust no Future, howe’er pleasant!
Let the dead Past bury its dead!
Act,— act in the living Present!
Heart within, and God o’erhead!

Lives of great men all remind us
We can make our lives sublime,
And, departing, leave behind us
Footprints on the sands of time;

Footprints, that perhaps another,
Sailing o’er life’s solemn main,
A forlorn and shipwrecked brother,
Seeing, shall take heart again.

Let us, then, be up and doing,
With a heart for any fate;
Still achieving, still pursuing,
Learn to labor and to wait.




MŨI TÊN VÀ BÀI CA

(The Arrow And The Song)


Tôi phóng lên trời một mũi tên
Mũi tên rơi nơi nào không biết được
Thật uổng phí ánh mắt tôi dõi nhìn
Lao vút nhanh rồi mũi tên mất hút.

Và tôi thả bài ca vào trời xanh
Không biết được lời bay đi đâu đó
Có ai thấy, có ai biết được rằng
ở nơi nào bài ca trong ngọn gió.

Mãi sau đó rất lâu, trên cây sồi
Tôi tìm thấy mũi tên còn nguyên vẹn
Và bài ca vẫn đầy đủ những lời
Tôi tìm thấy trong con tim người bạn.


The arrow and the song

I shot an arrow into the air,
It fell to earth, I knew not where;
For, so swiftly it flew, the sight
Could not follow it in its flight.

I breathed a song into the air,
It fell to earth, I knew not where;
For who has sight so keen and strong,
That it can follow the flight of song?

Long, long afterward, in an oak
I found the arrow, still unbroke;
And the song, from beginning to end,
I found again in the heart of a friend.