VỀ SHAKESPEARE
Cần gì đâu, Shakespeare của tôi
Dựng tượng đài bằng đá hoa, cẩm thạch
Hoặc phải dựng lên một kim tự tháp
Nơi tro cốt anh yên nghỉ muôn đời?
Người thừa kế danh vọng trong tương lai
Đâu đòi hỏi có tượng đài bằng đá.
Bởi vì bằng dấu ấn trong trí nhớ
Người yêu thơ anh đã dựng tượng đài.
Nghệ thuật kia sẽ xấu hổ khôn nguôi
Trước những dòng thơ của anh tuôn chảy
Những cuốn sách hiện ra từ trí nhớ
Thơ của anh mãi lay động lòng người.
Sự tưởng tượng của chúng tôi rồi đây
Biến những con tim trở thành mộ đá
Nơi mà anh sẽ ngủ yên ở đó
Ông vua nào cũng mong được vậy thôi.
On Shakespeare
What needs my Shakespeare for his honoured bones,
The labor of an age in pilèd stones,
Or that his hallowed relics should be hid
Under a star-ypointing pyramid?
Dear son of Memory, great heir of fame,
What need’st thou such weak witness of thy name?
Thou in our wonder and astonishment
Hast built thyself a live-long monument.
For whilst to th’ shame of slow-endeavouring art,
Thy easy numbers flow, and that each heart
Hath from the leaves of thy unvalued book
Those Delphic lines with deep impression took,
Then thou, our fancy of itself bereaving,
Dost make us marble with too much conceiving;
And so sepúlchred in such pomp dost lie,
That kings for such a tomb would wish to die.
VỀ SỰ MÙ LÒA
Khi tôi nghĩ rằng ánh sáng kia đã tắt
Thế giới tối tăm khi mới nửa đường trần
Thì tài năng ẩn chứa ở bên trong
Được trời ban đã trở thành uổng phí
Mặc dù linh hồn tôi luôn sẵn sàng
Trong mọi lúc phụng sự cho Thượng Đế.
“Sao phải làm việc người mắt chẳng có?”
Tôi hỏi xem, và đợi câu trả lời
Sự kiên nhẫn trả lời tôi: “Rằng Ngài
Không cần gì. Ngài trị vì tất cả
Phụng sự Ngài có thể theo nghìn ngả
Ai cũng phải lo mà trả nợ đời
Theo khả năng và biết cách phụng sự
Ngay cả người chỉ biết đứng chờ thôi”.
On His Blindness
When I consider how my light is spent,
Ere half my days in this dark world and wide,
And that one talent which is death to hide
Lodged with me useless, though my soul more bent
To serve therewith my Maker, and present
My true account, lest He returning chide;
“Doth God exact day-labor, light denied?”
I fondly ask. But Patience, to prevent
That murmur, soon replies, “God doth not need
Either man’s work or His own gifts. Who best
Bear His mild yoke, they serve Him best. His state
Is kingly: thousands at His bidding speed,
And post o’er land and ocean without rest;
They also serve who only stand and wait.”
NHÂN DỊP TRÒN 23 TUỔI
Thời gian là tên trộm tuổi thanh xuân
Tuổi hăm ba đã nằm trên đôi cánh
Cuối mùa xuân nhưng đã nhiều lo lắng
Nụ hay hoa đều chưa có trên cành.
Tôi thường mong những thứ mình không cần
Và ngày ấy xem chừng không xa lắm
Độ chín bên trong ít khi xuất hiện
Vẫn mang ơn hạnh phúc những linh hồn.
Dù ít hay nhiều, sớm hay muộn màng
Vẫn hướng về mục đích – cao hay thấp
Có thể gần hơn, có thể xa hơn.
Thời gian dẫn tôi theo ý Thiên đàng
Tất cả sẽ là hạnh phúc như vậy
Nếu thuận duyên theo ý của trời xanh.
On His Being Arrived to the Age of Twenty-Three
How soon hath Time, the subtle thief of youth,
Stol'n on his wing my three-and-twentieth year!
My hasting days fly on with full career,
But my late spring no bud or blossom shew'th.
Perhaps my semblance might deceive the truth
That I to manhood am arrived so near;
And inward ripeness doth much less appear,
That some more timely-happy spirits endu'th.
Yet be it less or more, or soon or slow,
It shall be still in strictest measure even
To that same lot, however mean or high,
Toward which Time leads me, and the will of Heaven;
All is, if I have grace to use it so,
As ever in my great Task-Master's eye.
Cần gì đâu, Shakespeare của tôi
Dựng tượng đài bằng đá hoa, cẩm thạch
Hoặc phải dựng lên một kim tự tháp
Nơi tro cốt anh yên nghỉ muôn đời?
Người thừa kế danh vọng trong tương lai
Đâu đòi hỏi có tượng đài bằng đá.
Bởi vì bằng dấu ấn trong trí nhớ
Người yêu thơ anh đã dựng tượng đài.
Nghệ thuật kia sẽ xấu hổ khôn nguôi
Trước những dòng thơ của anh tuôn chảy
Những cuốn sách hiện ra từ trí nhớ
Thơ của anh mãi lay động lòng người.
Sự tưởng tượng của chúng tôi rồi đây
Biến những con tim trở thành mộ đá
Nơi mà anh sẽ ngủ yên ở đó
Ông vua nào cũng mong được vậy thôi.
On Shakespeare
What needs my Shakespeare for his honoured bones,
The labor of an age in pilèd stones,
Or that his hallowed relics should be hid
Under a star-ypointing pyramid?
Dear son of Memory, great heir of fame,
What need’st thou such weak witness of thy name?
Thou in our wonder and astonishment
Hast built thyself a live-long monument.
For whilst to th’ shame of slow-endeavouring art,
Thy easy numbers flow, and that each heart
Hath from the leaves of thy unvalued book
Those Delphic lines with deep impression took,
Then thou, our fancy of itself bereaving,
Dost make us marble with too much conceiving;
And so sepúlchred in such pomp dost lie,
That kings for such a tomb would wish to die.
VỀ SỰ MÙ LÒA
Khi tôi nghĩ rằng ánh sáng kia đã tắt
Thế giới tối tăm khi mới nửa đường trần
Thì tài năng ẩn chứa ở bên trong
Được trời ban đã trở thành uổng phí
Mặc dù linh hồn tôi luôn sẵn sàng
Trong mọi lúc phụng sự cho Thượng Đế.
“Sao phải làm việc người mắt chẳng có?”
Tôi hỏi xem, và đợi câu trả lời
Sự kiên nhẫn trả lời tôi: “Rằng Ngài
Không cần gì. Ngài trị vì tất cả
Phụng sự Ngài có thể theo nghìn ngả
Ai cũng phải lo mà trả nợ đời
Theo khả năng và biết cách phụng sự
Ngay cả người chỉ biết đứng chờ thôi”.
On His Blindness
When I consider how my light is spent,
Ere half my days in this dark world and wide,
And that one talent which is death to hide
Lodged with me useless, though my soul more bent
To serve therewith my Maker, and present
My true account, lest He returning chide;
“Doth God exact day-labor, light denied?”
I fondly ask. But Patience, to prevent
That murmur, soon replies, “God doth not need
Either man’s work or His own gifts. Who best
Bear His mild yoke, they serve Him best. His state
Is kingly: thousands at His bidding speed,
And post o’er land and ocean without rest;
They also serve who only stand and wait.”
NHÂN DỊP TRÒN 23 TUỔI
Thời gian là tên trộm tuổi thanh xuân
Tuổi hăm ba đã nằm trên đôi cánh
Cuối mùa xuân nhưng đã nhiều lo lắng
Nụ hay hoa đều chưa có trên cành.
Tôi thường mong những thứ mình không cần
Và ngày ấy xem chừng không xa lắm
Độ chín bên trong ít khi xuất hiện
Vẫn mang ơn hạnh phúc những linh hồn.
Dù ít hay nhiều, sớm hay muộn màng
Vẫn hướng về mục đích – cao hay thấp
Có thể gần hơn, có thể xa hơn.
Thời gian dẫn tôi theo ý Thiên đàng
Tất cả sẽ là hạnh phúc như vậy
Nếu thuận duyên theo ý của trời xanh.
On His Being Arrived to the Age of Twenty-Three
How soon hath Time, the subtle thief of youth,
Stol'n on his wing my three-and-twentieth year!
My hasting days fly on with full career,
But my late spring no bud or blossom shew'th.
Perhaps my semblance might deceive the truth
That I to manhood am arrived so near;
And inward ripeness doth much less appear,
That some more timely-happy spirits endu'th.
Yet be it less or more, or soon or slow,
It shall be still in strictest measure even
To that same lot, however mean or high,
Toward which Time leads me, and the will of Heaven;
All is, if I have grace to use it so,
As ever in my great Task-Master's eye.
THIÊN ĐƯỜNG ĐÃ MẤT
Quyển Thứ nhất
Diễn giải
Quyển thứ nhất trước hết tóm tắt chủ đề của tác phẩm: sự không nghe lời của Con Người, mà hậu quả là đánh mất thiên đàng – nơi cư trú của con người; sau đấy chỉ ra nguyên nhân sa ngã: Con rắn, thực ra là quỉ Satan trong hình con rắn nổi loạn chống lại Chúa Trời và kéo theo nhiều Thiên thần, nhưng Chúa Trời ra lệnh đuổi nó cùng bè lũ từ nước Trời xuống vực thẳm. Nói đến những sự kiện này, trường ca chuyển sang đề tài trung tâm - nói về quỉ Satan và những thiên thần của nó ở Địa ngục. Tiếp đến là sự mô tả Địa ngục không phải ở trung tâm quả đất (trời và đất chưa được tạo ra, nghĩa là chưa có những lời nguyền rủa), mà ở trong bóng tối tuyệt đối gọi là Hỗn mang. Satan và các thiên thần của nó nằm trong hồ nước sôi, bị sét đánh, bị sỉ nhục nhưng sau khi hoàn hồn nó gọi những kẻ có giá trị và chức danh dưới nó, chúng trò chuyện về những nỗi khổ của mình. Satan đánh thức cả bọn khi chúng vẫn còn ở trong tình trạng đờ đẫn. Chúng leo lên, xếp thành hàng ngũ; những kẻ dẫn đầu mang tên của những thần tượng mà sau đó nổi tiếng ở Canaan và những quốc gia lân bang. Satan an ủi các chiến hữu bằng hy vọng giành lại Trời và nói về một thế giới mới và loài sinh vật mới, mà theo những lời tiên tri và truyền thuyết của Nước Trời, thì sẽ được tạo ra – các Thiên thần, theo lời của các Cha già, được tạo nên rất lâu trước khi những sinh vật mà mắt nhìn thấy xuất hiện. Để áp dụng những lời tiên tri và đưa ra hành động tiếp theo, Satan yêu cầu lập một hội đồng và tất cả đồng ý. Từ trong bóng tối hiện ra Pandemonium – lâu đài của Satan. Quỉ sứ Địa ngục ngồi họp nhau ở đó.
Về chuyện không nghe lời và về
Thứ trái cấm đã mang về cái chết
Thiên đường dành cho con người đã mất
Cho đến khi Con Người vĩ đại kia
Trả lại hạnh phúc sung sướng cho ta -
Nàng Thơ hãy hát lên và hãy xuống đây
Từ miền Oreb, hay từ chốn Sinai
Truyền cho người chăn chiên cảm hứng
Để từ đó mà truyền cho dân chúng
Về sự xuất hiện của mặt đất, bầu trời
Từ hỗn mang, và khi người say mê
Suối Siloa, đồi Sion vĩ đại
Lời tiên tri của Chúa Trời – ta gọi
Người giúp ta, và bài hát của ta
Bay trên miền Aonia bao la
Về những gì cao siêu ta hướng tới.
Nguyên vẹn trong văn và cả trong thơ.
Nhưng hỡi Linh hồn thần thánh, trước tiên
Người thích những con tim liêm khiết cho đền –
Hãy truyền dạy những tiên tri cao cả
Người giống như chim bồ câu muôn thuở
Bay trên vực thẳm, cho nó nở hoa
Hãy rót ánh sáng vào bóng tối của ta
Làm cho sáng ngời để ta có thể
Tìm ra những điều hay và lý lẽ
Để chứng minh cho một điều ơn huệ
Con đường của Người ta sẽ thanh minh
Hãy mở cho ta cả Địa ngục, Thiên Đường
Vì con mắt Người nhìn ra tất cả -
Điều gì quyến rũ Ông Bà ta như thế
Hai người hạnh phúc giữa chốn địa đàng
Là ân huệ bất tận của Trời xanh
Lại thả mình nghe theo điều dục vọng
Xa Đấng Sáng tạo, vi phạm điều cấm đoán.
……………………
Trích từ Thiên đường đã mất
Bản dịch của Hồ Thượng Tuy
____________
CHÚ THÍCH:*Con Người vĩ đại – tức là Giê-su Christ. Đề tài "Thiên đường trở lại" thông qua một cuộc sống ngoan đạo được Milton thể hiện ở tác phẩm sau.
*Nàng thơ hãy hát lên – đây là lối xưng hô truyền thống trong các thiên sử thi thời Phục hưng, dựa theo những hình tượng thời cổ đại.
*Người chăn chiên – tức Mô-sê, ông là tác giả của 5 cuốn trong Kinh Cựu Ước.
*Sinai và Oreb – những miền đất thánh trong Kinh Thánh. Oreb là nơi Mô-sê chăn chiên, còn Sinai là nơi ông nhận được bộ luật.
- Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Cựu Ước_Xuất hành. III)
- Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi (Cựu Ước_Xuất hành. XIX).
*Đồi Sion và suối Siloa ở Jerusalem những nơi này gắn với tên tuổi của vua David – tác giả của các bản Thánh ca trong Cựu Ước.
*Bay trên miền Aonia – nghĩa là trên núi Helicon ở miền Aonia. Theo truyền thuyết Hy Lạp thì trên núi Helicon có những dòng suối thiêng của thơ ca, nơi cư ngụ của các Nàng Thơ. Đây cũng là nơi có dòng suối mà Narcissus đã say sưa tự ngắm mình.
*Nguyên vẹn trong văn và cả trong thơ – là câu trích từ tác phẩm Orlando furioso, trường ca của Ludovico Ariosto có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học châu Âu Thời Mới.
*Những con tim liêm khiết cho đền – là câu xuất phát từ lời của thánh Phao-lô: “Anh em không biết sao: anh em là Ðền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em?” (Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rinh-tô III,16).
*Người giống như chim bồ câu muôn thuở… - Là hình tượng Chúa Trời trong Cựu Ước và Chúa Giê-su trong Tân Ước sau khi chịu phép rửa xong:
- Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. (Cựu Ước_Sáng Thế Ký 1, 2.)
- Khi Ðức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. (Tân Ước _Ma-thi-ơ II, 16).
Quyển Thứ nhất
Diễn giải
Quyển thứ nhất trước hết tóm tắt chủ đề của tác phẩm: sự không nghe lời của Con Người, mà hậu quả là đánh mất thiên đàng – nơi cư trú của con người; sau đấy chỉ ra nguyên nhân sa ngã: Con rắn, thực ra là quỉ Satan trong hình con rắn nổi loạn chống lại Chúa Trời và kéo theo nhiều Thiên thần, nhưng Chúa Trời ra lệnh đuổi nó cùng bè lũ từ nước Trời xuống vực thẳm. Nói đến những sự kiện này, trường ca chuyển sang đề tài trung tâm - nói về quỉ Satan và những thiên thần của nó ở Địa ngục. Tiếp đến là sự mô tả Địa ngục không phải ở trung tâm quả đất (trời và đất chưa được tạo ra, nghĩa là chưa có những lời nguyền rủa), mà ở trong bóng tối tuyệt đối gọi là Hỗn mang. Satan và các thiên thần của nó nằm trong hồ nước sôi, bị sét đánh, bị sỉ nhục nhưng sau khi hoàn hồn nó gọi những kẻ có giá trị và chức danh dưới nó, chúng trò chuyện về những nỗi khổ của mình. Satan đánh thức cả bọn khi chúng vẫn còn ở trong tình trạng đờ đẫn. Chúng leo lên, xếp thành hàng ngũ; những kẻ dẫn đầu mang tên của những thần tượng mà sau đó nổi tiếng ở Canaan và những quốc gia lân bang. Satan an ủi các chiến hữu bằng hy vọng giành lại Trời và nói về một thế giới mới và loài sinh vật mới, mà theo những lời tiên tri và truyền thuyết của Nước Trời, thì sẽ được tạo ra – các Thiên thần, theo lời của các Cha già, được tạo nên rất lâu trước khi những sinh vật mà mắt nhìn thấy xuất hiện. Để áp dụng những lời tiên tri và đưa ra hành động tiếp theo, Satan yêu cầu lập một hội đồng và tất cả đồng ý. Từ trong bóng tối hiện ra Pandemonium – lâu đài của Satan. Quỉ sứ Địa ngục ngồi họp nhau ở đó.
Về chuyện không nghe lời và về
Thứ trái cấm đã mang về cái chết
Thiên đường dành cho con người đã mất
Cho đến khi Con Người vĩ đại kia
Trả lại hạnh phúc sung sướng cho ta -
Nàng Thơ hãy hát lên và hãy xuống đây
Từ miền Oreb, hay từ chốn Sinai
Truyền cho người chăn chiên cảm hứng
Để từ đó mà truyền cho dân chúng
Về sự xuất hiện của mặt đất, bầu trời
Từ hỗn mang, và khi người say mê
Suối Siloa, đồi Sion vĩ đại
Lời tiên tri của Chúa Trời – ta gọi
Người giúp ta, và bài hát của ta
Bay trên miền Aonia bao la
Về những gì cao siêu ta hướng tới.
Nguyên vẹn trong văn và cả trong thơ.
Nhưng hỡi Linh hồn thần thánh, trước tiên
Người thích những con tim liêm khiết cho đền –
Hãy truyền dạy những tiên tri cao cả
Người giống như chim bồ câu muôn thuở
Bay trên vực thẳm, cho nó nở hoa
Hãy rót ánh sáng vào bóng tối của ta
Làm cho sáng ngời để ta có thể
Tìm ra những điều hay và lý lẽ
Để chứng minh cho một điều ơn huệ
Con đường của Người ta sẽ thanh minh
Hãy mở cho ta cả Địa ngục, Thiên Đường
Vì con mắt Người nhìn ra tất cả -
Điều gì quyến rũ Ông Bà ta như thế
Hai người hạnh phúc giữa chốn địa đàng
Là ân huệ bất tận của Trời xanh
Lại thả mình nghe theo điều dục vọng
Xa Đấng Sáng tạo, vi phạm điều cấm đoán.
……………………
Trích từ Thiên đường đã mất
Bản dịch của Hồ Thượng Tuy
____________
CHÚ THÍCH:*Con Người vĩ đại – tức là Giê-su Christ. Đề tài "Thiên đường trở lại" thông qua một cuộc sống ngoan đạo được Milton thể hiện ở tác phẩm sau.
*Nàng thơ hãy hát lên – đây là lối xưng hô truyền thống trong các thiên sử thi thời Phục hưng, dựa theo những hình tượng thời cổ đại.
*Người chăn chiên – tức Mô-sê, ông là tác giả của 5 cuốn trong Kinh Cựu Ước.
*Sinai và Oreb – những miền đất thánh trong Kinh Thánh. Oreb là nơi Mô-sê chăn chiên, còn Sinai là nơi ông nhận được bộ luật.
- Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Cựu Ước_Xuất hành. III)
- Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi (Cựu Ước_Xuất hành. XIX).
*Đồi Sion và suối Siloa ở Jerusalem những nơi này gắn với tên tuổi của vua David – tác giả của các bản Thánh ca trong Cựu Ước.
*Bay trên miền Aonia – nghĩa là trên núi Helicon ở miền Aonia. Theo truyền thuyết Hy Lạp thì trên núi Helicon có những dòng suối thiêng của thơ ca, nơi cư ngụ của các Nàng Thơ. Đây cũng là nơi có dòng suối mà Narcissus đã say sưa tự ngắm mình.
*Nguyên vẹn trong văn và cả trong thơ – là câu trích từ tác phẩm Orlando furioso, trường ca của Ludovico Ariosto có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học châu Âu Thời Mới.
*Những con tim liêm khiết cho đền – là câu xuất phát từ lời của thánh Phao-lô: “Anh em không biết sao: anh em là Ðền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em?” (Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rinh-tô III,16).
*Người giống như chim bồ câu muôn thuở… - Là hình tượng Chúa Trời trong Cựu Ước và Chúa Giê-su trong Tân Ước sau khi chịu phép rửa xong:
- Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. (Cựu Ước_Sáng Thế Ký 1, 2.)
- Khi Ðức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. (Tân Ước _Ma-thi-ơ II, 16).
Về tác phẩm "Thiên Đường Đã Mất":
Thiên đường đã mất (tiếng Anh: Paradise Lost) – là một thiên sử thi bằng thơ không vần (blank verse) của John Milton kể về lịch sử của con người đầu tiên – Adam. Thiên đường đã mất in lần đầu tiên năm 1667 gồm 10 quyển. Bản in năm 1674 gồm 12 quyển.
Thiên đường đã mất được in lại vô khối lần trong nhiều thế kỷ nay và được dịch ra rất nhiều thứ tiếng của thế giới, trong đó có tiếng Việt. Sau Thiên đường đã mất Milton viết tiếp Thiên đường trở lại. Cả hai tác phẩm tiêu biểu này phản ánh đầy đủ đời sống chính trị nước Anh đương thời cũng như số phận cuộc đời của chính tác giả.
Thiên đường đã mất dựa theo cốt truyện của Kinh Thánh. Trong trường ca này Adam và Eve đã sống một cuộc sống ân ái vợ chồng trước khi vi phạm điều cấm và bị đuổi khỏi thiên đàng. Trong Thiên đường đã mất Eve là một phụ nữ rất xinh đẹp và độc lập với chồng. Sau khi nghe lời con rắn dụ dỗ đã ăn trái cấm, nàng đưa cho chồng cùng ăn và Adam đã ăn trái cấm vì tình yêu đối với Eve, mặc dù thiên thần Raphael đã từng cảnh báo trước…
Adam cầm tay người vợ thân yêu
Dẫn nàng ra một ngọn đồi rợp bóng
Dưới bóng cây, trên lớp lá trải dày
Hoa lưu ly, dạ lan hương, hoa tím
Làm thành chiếc giường mềm mại như lông
Lòng đất mát mẻ, họ say sưa với tình
Và mê mải với niềm vui thân xác
Cả hai lầm lỗi và cùng khao khát
Sự nhận thức và ngăn cách lỗi lầm
Thế rồi rã rời sau cuộc truy hoan
Họ ngủ say trong màn sương trải khắp.
..............................
(Quyển IX – Thiên đường đã mất)
Dưới đây là tóm tắt nội dung của Thiên đường đã mất dựa theo bản dịch tiếng Việt của Hồ Thượng Tuy.
Nhà thơ suy ngẫm về nguyên nhân sự không nghe lời của hai con người đầu tiên, họ đã vi phạm điều cấm đoán duy nhất của Chúa Trời và bị đuổi khỏi thiên đàng. Theo gợi ý của Thánh Linh, nhà thơ gọi kẻ có lỗi trong sự sa ngã của Adam và Eve là Quỉ Satan mang hình Con Rắn.
Trước khi Chúa Trời sáng tạo ra trời đất, con người và vạn vật, quỉ Satan với thói ngạo mạn của nó đã nổi loạn chống lại Chúa Trời, lôi kéo một số thiên thần và cùng với chúng, bị đuổi từ Nước Trời vào bóng tối và Hỗn mang. Nhưng Satan không chịu hối hận và không chịu thất bại. Satan muốn trở thành chúa tể của Địa ngục chứ không phải đầy tớ của Nước Trời. Satan kêu gọi những kẻ cùng chí hướng tiếp tục đấu tranh chống lại Chúa Trời và tạo những điều Ác, ngược lại với ý muốn của Ngài. Satan kể cho những kẻ hầu cận rằng sẽ đến lúc Đấng Tối Cao tạo ra một thế giới mới và ở đó sẽ có những sinh vật mà Ngài yêu như những Thiên thần. Nếu hành động một cách khôn ngoan thì có thể chiếm đoạt được thế giới mới này. Một Hội đồng gồm những kẻ cầm đầu nhóm họp ở tòa lâu đài Pandemonium.
Hội đồng gồm những kẻ cầm đầu chia thành hai phe: một phe ủng hộ chiến tranh, phe kia – phản đối. Cuối cùng chúng cũng đạt được sự thỏa thuận là đồng ý với đề nghị của Satan kiểm tra tính trung thực của truyền thuyết cổ nói về việc Đấng Tối Cao tạo ra một thế giới mới và tạo nên Con người. Theo truyền thuyết thì thời gian để tạo ra một thế giới mới đã đến lúc. Nếu sắp tới đây Satan và các thiên thần của mình bị cấm lên Nước Trời thì cần phải giành lấy thế giới sắp được tạo ra, xua đuổi hoặc thôn tình những cư dân ở đó về phía mình để trả thù Đấng Tạo Hóa. Satan cất bước lên đường, vượt qua vực thẳm ngăn cách Địa ngục và Trời, còn Hỗn mang – chúa tể của vực thẳm sẽ chỉ đường cho nó đến thế giới mới.
Đáng Tối Cao ngự trên ngai và Ngài nhìn thấy quá khứ, hiện tại và tương lai, nhìn thấy Satan đang bay về thế giới mới. Ngài nói với Chúa con rằng sẽ tha thứ cho Con người về sự sa ngã nếu con người chịu sự trừng phạt vì đã vi phạm điều cấm chỉ. Từ đây con người và con cháu của nó sẽ phải chết và chỉ có ai hy sinh thân mình để chuộc lỗi thì mới thoát khỏi cái chết. Để cứu rỗi thế giới, Chúa con nói sẽ sẵn sàng hy sinh để Chúa cha chấp nhận. Chúa cha sai Chúa con hóa thành người trần. Các thiên thần trên trời cúi mình trước Chúa con rồi ca tụng Chúa cha và Chúa con.
Lúc này Satan đã bay trên bề mặt của những tinh cầu trong hoàn vũ, bay trong bóng tối trên sa mạc. Satan vượt qua Limbus, Cổng trời và hạ xuống Mặt trời. Trong gương mặt của một thiên thần trẻ tuổi hắn dò hỏi thần mặt trời – Uriel về nơi ở của Con người. Uriel chỉ cho Satan một trong số các hành tinh quay trong quĩ đạo của mình và Satan hạ xuống Trái đất, trên đồi Niphātes. Bay qua cổng thiên đàng, Satan trong hình con quạ biển hạ cánh xuống cây Nhận thức. Satan với ý đồ nham hiểm: sẽ khơi dậy trong con người nỗi khát khao nhận biết để nó sẽ vi phạm điều cấm chỉ của Đấng Sáng Tạo.
Uriel hạ theo tia nắng xuống Gabriel đang canh Thiên đàng, thông báo với Gabriel rằng lúc trưa có một Linh hồn ác từ Trời mang khuôn mặt của một Thiên thần đi về Thiên đàng. Buổi tối Gabriel đi một vòng quanh Thiên đàng. Trong một bụi cây, với những niềm vui và nỗi mệt nhọc sau một ngày lao động, Adam và Eve đang ngủ say. Thiên thần Xephon do Gabriel phái đến đã thấy Satan trong hình một con cóc đang ghé bên tai Eve để làm bùa phép thức dậy những dục vọng và những ý nghĩ tăm tối cùng với vẻ ngạo mạn. Thiên thần dẫn Satan đến gặp Gabriel. Linh hồn nổi loạn đã sẵn sàng nhưng Satan khôn ngoan tránh điều này và bỏ ra đi nhưng không từ bỏ ý định của mình.
Buổi sáng Eve kể cho Adam về giấc mơ của mình: có một ai đấy đã dụ dỗ nàng ăn trái cấm và nàng như được bay lên khỏi mặt đất, cảm thấy một điều sung sướng vô tận.
Chúa Trời phái thiên thần Raphael đến Adam để nói về ý chí tự do của con người và về một Kẻ thù dữ dằn và những ý nghĩ quỷ quyệt của nó. Raphael kể cho Adam về cuộc nổi loạn trên trời: Satan ganh tỵ vì Chúa Trời ca tụng Chúa con và gọi Ngài là Messiah, là Vua nên đã lôi kéo một số thiên thần và thuyết phục để họ chống lại Đáng Tối Cao.
Raphael tiếp tục kể...
Chúa Trời phái các thiên sứ Michael và Gabriel chống lại Satan. Satan lập một Hội đồng và cùng với các chiến hữu nghĩ ra một loại vũ khí đánh bật được các thiên sứ. Khi đó Chúa Trời phái Chúa con đến dẹp loạn. Chúa con đuổi Kẻ thù đến bờ giậu của Bầu trời và bức tường pha lê đổ xuống, những kẻ nổi loạn rơi xuống vực.
Adam bảo Raphael kể cho nghe về việc tạo ra thế giới này. Raphael nói rằng Chúa Trời muốn tạo ra một thế giới mới và những sinh vật sống trên thế giới này sau khi Ngài đã đuổi được Satan và những kẻ nổi loạn xuống Địa ngục. Ngài sẽ cho Chúa con, Lời nói được các thiên thần hộ tống làm việc của mình. Trả lời câu hỏi của Adam về sự chuyển động của các vì tinh tú, Raphael khuyên Adam chỉ nên quan tâm đến những gì mà trí tuệ của con người hiểu được. Adam cũng kể chuyện cho Raphael rằng Adam nhớ từ cái khoảnh khắc được tao ra. Adam thừa nhận với thiên sứ rằng Eve có quyền đối với Adam. Adam hiểu rằng nàng vượt xa mình về sắc đẹp nhưng thua về trí tuệ, mặc dù vậy tất cả lời nói và hành động của nàng đều tuyệt vời và giọng nói của trí tuệ thường im lặng trước vẻ đẹp của phụ nữ. Thiên sứ Raphael không bàn luận về chuyện khoái lạc tình yêu của hai người nhưng dù sao cũng cảnh báo Adam về những đam mê mù quáng và hứa hẹn sẽ có những hạnh phúc trên trời vượt xa những hạnh phúc dưới đất. Nhưng về câu hỏi của Adam – hạnh phúc trên trời là gì thì Rapahel vòng vo và tiếp tục nhắc lại rằng chỉ nên suy nghĩ những gì mà trí tuệ con người nhận thức nổi.
Satan trong hình dạng một màn sương đột nhập vào vườn địa đàng rồi nhập vào một con rắn đang ngủ - là con vật tinh ranh nhất trong muôn loài. Buổi sáng Con rắn tìm Eve rồi dụ dỗ Eve ăn trái cấm từ cây Nhận thức. Con rắn nói rằng nàng sẽ không chết và rằng nhờ trái cấm này mà nó có được lời nói cũng như trí khôn.
Eve bị mắc lừa của Kẻ thù đã ăn trái cấm và đi tìm Adam. Người chồng yêu Eve say đắm đã quyết định làm theo vợ của mình. Ăn trái cấm xong họ cảm thấy một cơn say: nhận thức đánh mất sự sáng tỏ còn trong tâm hồn thức dậy một dục vọng mà sau đó cảm thấy chán nản và xấu hổ. Cả Adam và Eve hiểu rằng Con Rắn hứa hen nhiều điều đã lừa dối họ và họ tự trách nhau.
Chúa Trời cử Chúa con xuống mặt đất để xét tội những kẻ không nghe lời. Lỗi lầm và Cái chết đang ngồi bên cổng vào Địa ngục và chúng đang tìm đường để lên mặt đất. Đi theo con đường mà quỉ Satan đã đi, Lỗi lầm và Cái chết làm một cây cầu xuyên qua Hỗn mang, giữa Địa ngục và thế giới mới.
Lúc này Satan ở trong lâu đài Pandemonium đang nói về chiến thắng với con người. Tuy nhiên Chúa Cha cho rằng Chúa con đang chiến thắng Lỗi lầm và Cái chết và đang phục hồi sự sáng tạo của Ngài.
Eve cảm thấy tuyệt vọng vì một điều rằng sau này con cháu sẽ nguyền rủa họ bèn nói với chồng đi tìm Cái chết để làm sao trở thành những người chết đầu tiên và cuối cùng. Nhưng Adam nhắc vợ về lời hứa, mà theo đó, con cháu sau này đánh dập đầu con rắn. Adam cũng hy vọng ở sự bao dung của Chúa Trời qua việc sám hối và những lời cầu nguyện.
Chúa con cảm thấy sự sám hối chân thành của Adam và Eve thì đã cầu xin cho họ và hy vọng Chúa Trời sẽ giảm nhẹ hình phạt. Chúa Trời phái các thiên thần do Michael dẫn đầu để đuổi Adam và Eve ra khỏi thiên đàng. Trước khi thực hiện lệnh của Chúa Trời, thiên thần Michael đưa Adam lên một ngọn đồi cao và chỉ cho Adam thấy tất cả những gì đang diễn ra trên mặt đất trước khi Đại hồng thủy xảy ra.
Thiên thần Michael kể cho Adam nghe về số phận của loài người và giải thích về lời hứa gia truyền. Ngài nói về cái chết, sự hồi sinh và sự thăng thiên của Chúa con cũng như việc nhà thờ sẽ tồn tại ra sao trước khi Chúa giáng sinh. Adam được an ủi bèn thức Eve đang ngủ dậy và thiên thần Michael đưa hai người ra khỏi vườn địa đàng. Từ đó cổng vào vườn này được canh gác cẩn mật và bảo vệ bằng thanh kiếm lửa hướng về phía trước. Ấp ủ trong tim một niềm hy vọng về sự cứu rỗi cho loài người, Adam và Eve vui vẻ bước ra khỏi vườn địa đàng.
Raphael tiếp tục kể...
Chúa Trời phái các thiên sứ Michael và Gabriel chống lại Satan. Satan lập một Hội đồng và cùng với các chiến hữu nghĩ ra một loại vũ khí đánh bật được các thiên sứ. Khi đó Chúa Trời phái Chúa con đến dẹp loạn. Chúa con đuổi Kẻ thù đến bờ giậu của Bầu trời và bức tường pha lê đổ xuống, những kẻ nổi loạn rơi xuống vực.
Adam bảo Raphael kể cho nghe về việc tạo ra thế giới này. Raphael nói rằng Chúa Trời muốn tạo ra một thế giới mới và những sinh vật sống trên thế giới này sau khi Ngài đã đuổi được Satan và những kẻ nổi loạn xuống Địa ngục. Ngài sẽ cho Chúa con, Lời nói được các thiên thần hộ tống làm việc của mình. Trả lời câu hỏi của Adam về sự chuyển động của các vì tinh tú, Raphael khuyên Adam chỉ nên quan tâm đến những gì mà trí tuệ của con người hiểu được. Adam cũng kể chuyện cho Raphael rằng Adam nhớ từ cái khoảnh khắc được tao ra. Adam thừa nhận với thiên sứ rằng Eve có quyền đối với Adam. Adam hiểu rằng nàng vượt xa mình về sắc đẹp nhưng thua về trí tuệ, mặc dù vậy tất cả lời nói và hành động của nàng đều tuyệt vời và giọng nói của trí tuệ thường im lặng trước vẻ đẹp của phụ nữ. Thiên sứ Raphael không bàn luận về chuyện khoái lạc tình yêu của hai người nhưng dù sao cũng cảnh báo Adam về những đam mê mù quáng và hứa hẹn sẽ có những hạnh phúc trên trời vượt xa những hạnh phúc dưới đất. Nhưng về câu hỏi của Adam – hạnh phúc trên trời là gì thì Rapahel vòng vo và tiếp tục nhắc lại rằng chỉ nên suy nghĩ những gì mà trí tuệ con người nhận thức nổi.
Satan trong hình dạng một màn sương đột nhập vào vườn địa đàng rồi nhập vào một con rắn đang ngủ - là con vật tinh ranh nhất trong muôn loài. Buổi sáng Con rắn tìm Eve rồi dụ dỗ Eve ăn trái cấm từ cây Nhận thức. Con rắn nói rằng nàng sẽ không chết và rằng nhờ trái cấm này mà nó có được lời nói cũng như trí khôn.
Eve bị mắc lừa của Kẻ thù đã ăn trái cấm và đi tìm Adam. Người chồng yêu Eve say đắm đã quyết định làm theo vợ của mình. Ăn trái cấm xong họ cảm thấy một cơn say: nhận thức đánh mất sự sáng tỏ còn trong tâm hồn thức dậy một dục vọng mà sau đó cảm thấy chán nản và xấu hổ. Cả Adam và Eve hiểu rằng Con Rắn hứa hen nhiều điều đã lừa dối họ và họ tự trách nhau.
Chúa Trời cử Chúa con xuống mặt đất để xét tội những kẻ không nghe lời. Lỗi lầm và Cái chết đang ngồi bên cổng vào Địa ngục và chúng đang tìm đường để lên mặt đất. Đi theo con đường mà quỉ Satan đã đi, Lỗi lầm và Cái chết làm một cây cầu xuyên qua Hỗn mang, giữa Địa ngục và thế giới mới.
Lúc này Satan ở trong lâu đài Pandemonium đang nói về chiến thắng với con người. Tuy nhiên Chúa Cha cho rằng Chúa con đang chiến thắng Lỗi lầm và Cái chết và đang phục hồi sự sáng tạo của Ngài.
Eve cảm thấy tuyệt vọng vì một điều rằng sau này con cháu sẽ nguyền rủa họ bèn nói với chồng đi tìm Cái chết để làm sao trở thành những người chết đầu tiên và cuối cùng. Nhưng Adam nhắc vợ về lời hứa, mà theo đó, con cháu sau này đánh dập đầu con rắn. Adam cũng hy vọng ở sự bao dung của Chúa Trời qua việc sám hối và những lời cầu nguyện.
Chúa con cảm thấy sự sám hối chân thành của Adam và Eve thì đã cầu xin cho họ và hy vọng Chúa Trời sẽ giảm nhẹ hình phạt. Chúa Trời phái các thiên thần do Michael dẫn đầu để đuổi Adam và Eve ra khỏi thiên đàng. Trước khi thực hiện lệnh của Chúa Trời, thiên thần Michael đưa Adam lên một ngọn đồi cao và chỉ cho Adam thấy tất cả những gì đang diễn ra trên mặt đất trước khi Đại hồng thủy xảy ra.
Thiên thần Michael kể cho Adam nghe về số phận của loài người và giải thích về lời hứa gia truyền. Ngài nói về cái chết, sự hồi sinh và sự thăng thiên của Chúa con cũng như việc nhà thờ sẽ tồn tại ra sao trước khi Chúa giáng sinh. Adam được an ủi bèn thức Eve đang ngủ dậy và thiên thần Michael đưa hai người ra khỏi vườn địa đàng. Từ đó cổng vào vườn này được canh gác cẩn mật và bảo vệ bằng thanh kiếm lửa hướng về phía trước. Ấp ủ trong tim một niềm hy vọng về sự cứu rỗi cho loài người, Adam và Eve vui vẻ bước ra khỏi vườn địa đàng.