Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

Thơ tình John Milton


VỀ SHAKESPEARE

Cần gì đâu, Shakespeare của tôi
Dựng tượng đài bằng đá hoa, cẩm thạch
Hoặc phải dựng lên một kim tự tháp
Nơi tro cốt anh yên nghỉ muôn đời?

Người thừa kế danh vọng trong tương lai
Đâu đòi hỏi có tượng đài bằng đá.
Bởi vì bằng dấu ấn trong trí nhớ
Người yêu thơ anh đã dựng tượng đài.

Nghệ thuật kia sẽ xấu hổ khôn nguôi
Trước những dòng thơ của anh tuôn chảy
Những cuốn sách hiện ra từ trí nhớ
Thơ của anh mãi lay động lòng người.

Sự tưởng tượng của chúng tôi rồi đây
Biến những con tim trở thành mộ đá
Nơi mà anh sẽ ngủ yên ở đó
Ông vua nào cũng mong được vậy thôi. 

On Shakespeare

What needs my Shakespeare for his honoured bones,
The labor of an age in pilèd stones,
Or that his hallowed relics should be hid   
Under a star-ypointing pyramid? 

Dear son of Memory, great heir of fame, 
What need’st thou such weak witness of thy name?
Thou in our wonder and astonishment 
Hast built thyself a live-long monument. 

For whilst to th’ shame of slow-endeavouring art,   
Thy easy numbers flow, and that each heart   
Hath from the leaves of thy unvalued book 
Those Delphic lines with deep impression took,   

Then thou, our fancy of itself bereaving,   
Dost make us marble with too much conceiving; 
And so sepúlchred in such pomp dost lie,
That kings for such a tomb would wish to die.



VỀ SỰ MÙ LÒA 

Khi tôi nghĩ rằng ánh sáng kia đã tắt
Thế giới tối tăm khi mới nửa đường trần
Thì tài năng ẩn chứa ở bên trong 
Được trời ban đã trở thành uổng phí
Mặc dù linh hồn tôi luôn sẵn sàng
Trong mọi lúc phụng sự cho Thượng Đế.
“Sao phải làm việc người mắt chẳng có?”
Tôi hỏi xem, và đợi câu trả lời
Sự kiên nhẫn trả lời tôi: “Rằng Ngài
Không cần gì. Ngài trị vì tất cả
Phụng sự Ngài có thể theo nghìn ngả
Ai cũng phải lo mà trả nợ đời
Theo khả năng và biết cách phụng sự
Ngay cả người chỉ biết đứng chờ thôi”.

On His Blindness

When I consider how my light is spent,
Ere half my days in this dark world and wide,
And that one talent which is death to hide
Lodged with me useless, though my soul more bent
To serve therewith my Maker, and present
My true account, lest He returning chide;
“Doth God exact day-labor, light denied?”
I fondly ask. But Patience, to prevent
That murmur, soon replies, “God doth not need
Either man’s work or His own gifts. Who best
Bear His mild yoke, they serve Him best. His state
Is kingly: thousands at His bidding speed,
And post o’er land and ocean without rest;
They also serve who only stand and wait.”




NHÂN DỊP TRÒN 23 TUỔI

Thời gian là tên trộm tuổi thanh xuân
Tuổi hăm ba đã nằm trên đôi cánh
Cuối mùa xuân nhưng đã nhiều lo lắng
Nụ hay hoa đều chưa có trên cành.

Tôi thường mong những thứ mình không cần
Và ngày ấy xem chừng không xa lắm
Độ chín bên trong ít khi xuất hiện
Vẫn mang ơn hạnh phúc những linh hồn.

Dù ít hay nhiều, sớm hay muộn màng
Vẫn hướng về mục đích – cao hay thấp
Có thể gần hơn, có thể xa hơn.

Thời gian dẫn tôi theo ý Thiên đàng
Tất cả sẽ là hạnh phúc như vậy
Nếu thuận duyên theo ý của trời xanh.

On His Being Arrived to the Age of Twenty-Three

How soon hath Time, the subtle thief of youth,
Stol'n on his wing my three-and-twentieth year!
My hasting days fly on with full career,
But my late spring no bud or blossom shew'th.

Perhaps my semblance might deceive the truth  
That I to manhood am arrived so near;
And inward ripeness doth much less appear,
That some more timely-happy spirits endu'th.

Yet be it less or more, or soon or slow,
It shall be still in strictest measure even    
To that same lot, however mean or high,

Toward which Time leads me, and the will of Heaven;
All is, if I have grace to use it so,
As ever in my great Task-Master's eye.



THIÊN ĐƯỜNG ĐÃ MẤT 

Quyển Thứ nhất 

Diễn giải 

Quyển thứ nhất trước hết tóm tắt chủ đề của tác phẩm: sự không nghe lời của Con Người, mà hậu quả là đánh mất thiên đàng – nơi cư trú của con người; sau đấy chỉ ra nguyên nhân sa ngã: Con rắn, thực ra là quỉ Satan trong hình con rắn nổi loạn chống lại Chúa Trời và kéo theo nhiều Thiên thần, nhưng Chúa Trời ra lệnh đuổi nó cùng bè lũ từ nước Trời xuống vực thẳm. Nói đến những sự kiện này, trường ca chuyển sang đề tài trung tâm - nói về quỉ Satan và những thiên thần của nó ở Địa ngục. Tiếp đến là sự mô tả Địa ngục không phải ở trung tâm quả đất (trời và đất chưa được tạo ra, nghĩa là chưa có những lời nguyền rủa), mà ở trong bóng tối tuyệt đối gọi là Hỗn mang. Satan và các thiên thần của nó nằm trong hồ nước sôi, bị sét đánh, bị sỉ nhục nhưng sau khi hoàn hồn nó gọi những kẻ có giá trị và chức danh dưới nó, chúng trò chuyện về những nỗi khổ của mình. Satan đánh thức cả bọn khi chúng vẫn còn ở trong tình trạng đờ đẫn. Chúng leo lên, xếp thành hàng ngũ; những kẻ dẫn đầu mang tên của những thần tượng mà sau đó nổi tiếng ở Canaan và những quốc gia lân bang. Satan an ủi các chiến hữu bằng hy vọng giành lại Trời và nói về một thế giới mới và loài sinh vật mới, mà theo những lời tiên tri và truyền thuyết của Nước Trời, thì sẽ được tạo ra – các Thiên thần, theo lời của các Cha già, được tạo nên rất lâu trước khi những sinh vật mà mắt nhìn thấy xuất hiện. Để áp dụng những lời tiên tri và đưa ra hành động tiếp theo, Satan yêu cầu lập một hội đồng và tất cả đồng ý. Từ trong bóng tối hiện ra Pandemonium – lâu đài của Satan. Quỉ sứ Địa ngục ngồi họp nhau ở đó. 

Về chuyện không nghe lời và về 
Thứ trái cấm đã mang về cái chết 
Thiên đường dành cho con người đã mất 
Cho đến khi Con Người vĩ đại kia 
Trả lại hạnh phúc sung sướng cho ta - 
Nàng Thơ hãy hát lên và hãy xuống đây 
Từ miền Oreb, hay từ chốn Sinai 
Truyền cho người chăn chiên cảm hứng 
Để từ đó mà truyền cho dân chúng 
Về sự xuất hiện của mặt đất, bầu trời 
Từ hỗn mang, và khi người say mê 
Suối Siloa, đồi Sion vĩ đại 
Lời tiên tri của Chúa Trời – ta gọi 
Người giúp ta, và bài hát của ta 
Bay trên miền Aonia bao la 
Về những gì cao siêu ta hướng tới. 
Nguyên vẹn trong văn và cả trong thơ. 
Nhưng hỡi Linh hồn thần thánh, trước tiên 
Người thích những con tim liêm khiết cho đền – 
Hãy truyền dạy những tiên tri cao cả 
Người giống như chim bồ câu muôn thuở 
Bay trên vực thẳm, cho nó nở hoa 
Hãy rót ánh sáng vào bóng tối của ta 
Làm cho sáng ngời để ta có thể 
Tìm ra những điều hay và lý lẽ 
Để chứng minh cho một điều ơn huệ 
Con đường của Người ta sẽ thanh minh 
Hãy mở cho ta cả Địa ngục, Thiên Đường 
Vì con mắt Người nhìn ra tất cả - 
Điều gì quyến rũ Ông Bà ta như thế 
Hai người hạnh phúc giữa chốn địa đàng 
Là ân huệ bất tận của Trời xanh 
Lại thả mình nghe theo điều dục vọng 
Xa Đấng Sáng tạo, vi phạm điều cấm đoán. 

…………………… 

Trích từ Thiên đường đã mất 
Bản dịch của Hồ Thượng Tuy 
____________

CHÚ THÍCH:
*Con Người vĩ đại – tức là Giê-su Christ. Đề tài "Thiên đường trở lại" thông qua một cuộc sống ngoan đạo được Milton thể hiện ở tác phẩm sau. 

*Nàng thơ hãy hát lên – đây là lối xưng hô truyền thống trong các thiên sử thi thời Phục hưng, dựa theo những hình tượng thời cổ đại. 

*Người chăn chiên – tức Mô-sê, ông là tác giả của 5 cuốn trong Kinh Cựu Ước. 

*Sinai và Oreb – những miền đất thánh trong Kinh Thánh. Oreb là nơi Mô-sê chăn chiên, còn Sinai là nơi ông nhận được bộ luật. 
- Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Cựu Ước_Xuất hành. III) 
- Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi (Cựu Ước_Xuất hành. XIX). 


*Đồi Sion và suối Siloa ở Jerusalem những nơi này gắn với tên tuổi của vua David – tác giả của các bản Thánh ca trong Cựu Ước. 

*Bay trên miền Aonia – nghĩa là trên núi Helicon ở miền Aonia. Theo truyền thuyết Hy Lạp thì trên núi Helicon có những dòng suối thiêng của thơ ca, nơi cư ngụ của các Nàng Thơ. Đây cũng là nơi có dòng suối mà Narcissus đã say sưa tự ngắm mình. 

*Nguyên vẹn trong văn và cả trong thơ – là câu trích từ tác phẩm Orlando furioso, trường ca của Ludovico Ariosto có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học châu Âu Thời Mới. 

*Những con tim liêm khiết cho đền – là câu xuất phát từ lời của thánh Phao-lô: “Anh em không biết sao: anh em là Ðền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em?” (Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rinh-tô III,16). 

*Người giống như chim bồ câu muôn thuở… - Là hình tượng Chúa Trời trong Cựu Ước và Chúa Giê-su trong Tân Ước sau khi chịu phép rửa xong: 
- Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. (Cựu Ước_Sáng Thế Ký 1, 2.) 
- Khi Ðức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. (Tân Ước _Ma-thi-ơ II, 16).
 



Về tác phẩm "Thiên Đường Đã Mất": 


Thiên đường đã mất (tiếng Anh: Paradise Lost) – là một thiên sử thi bằng thơ không vần (blank verse) của John Milton kể về lịch sử của con người đầu tiên – Adam. Thiên đường đã mất in lần đầu tiên năm 1667 gồm 10 quyển. Bản in năm 1674 gồm 12 quyển.

Thiên đường đã mất được in lại vô khối lần trong nhiều thế kỷ nay và được dịch ra rất nhiều thứ tiếng của thế giới, trong đó có tiếng Việt. Sau Thiên đường đã mất Milton viết tiếp Thiên đường trở lại. Cả hai tác phẩm tiêu biểu này phản ánh đầy đủ đời sống chính trị nước Anh đương thời cũng như số phận cuộc đời của chính tác giả.

Thiên đường đã mất dựa theo cốt truyện của Kinh Thánh. Trong trường ca này Adam và Eve đã sống một cuộc sống ân ái vợ chồng trước khi vi phạm điều cấm và bị đuổi khỏi thiên đàng. Trong Thiên đường đã mất Eve là một phụ nữ rất xinh đẹp và độc lập với chồng. Sau khi nghe lời con rắn dụ dỗ đã ăn trái cấm, nàng đưa cho chồng cùng ăn và Adam đã ăn trái cấm vì tình yêu đối với Eve, mặc dù thiên thần Raphael đã từng cảnh báo trước…

Adam cầm tay người vợ thân yêu 
Dẫn nàng ra một ngọn đồi rợp bóng 
Dưới bóng cây, trên lớp lá trải dày 
Hoa lưu ly, dạ lan hương, hoa tím 
Làm thành chiếc giường mềm mại như lông 
Lòng đất mát mẻ, họ say sưa với tình 
Và mê mải với niềm vui thân xác 
Cả hai lầm lỗi và cùng khao khát 
Sự nhận thức và ngăn cách lỗi lầm 
Thế rồi rã rời sau cuộc truy hoan 
Họ ngủ say trong màn sương trải khắp. 

.............................. 
(Quyển IX – Thiên đường đã mất) 



Dưới đây là tóm tắt nội dung của Thiên đường đã mất dựa theo bản dịch tiếng Việt của Hồ Thượng Tuy.

Nhà thơ suy ngẫm về nguyên nhân sự không nghe lời của hai con người đầu tiên, họ đã vi phạm điều cấm đoán duy nhất của Chúa Trời và bị đuổi khỏi thiên đàng. Theo gợi ý của Thánh Linh, nhà thơ gọi kẻ có lỗi trong sự sa ngã của Adam và Eve là Quỉ Satan mang hình Con Rắn.

Trước khi Chúa Trời sáng tạo ra trời đất, con người và vạn vật, quỉ Satan với thói ngạo mạn của nó đã nổi loạn chống lại Chúa Trời, lôi kéo một số thiên thần và cùng với chúng, bị đuổi từ Nước Trời vào bóng tối và Hỗn mang. Nhưng Satan không chịu hối hận và không chịu thất bại. Satan muốn trở thành chúa tể của Địa ngục chứ không phải đầy tớ của Nước Trời. Satan kêu gọi những kẻ cùng chí hướng tiếp tục đấu tranh chống lại Chúa Trời và tạo những điều Ác, ngược lại với ý muốn của Ngài. Satan kể cho những kẻ hầu cận rằng sẽ đến lúc Đấng Tối Cao tạo ra một thế giới mới và ở đó sẽ có những sinh vật mà Ngài yêu như những Thiên thần. Nếu hành động một cách khôn ngoan thì có thể chiếm đoạt được thế giới mới này. Một Hội đồng gồm những kẻ cầm đầu nhóm họp ở tòa lâu đài Pandemonium.

Hội đồng gồm những kẻ cầm đầu chia thành hai phe: một phe ủng hộ chiến tranh, phe kia – phản đối. Cuối cùng chúng cũng đạt được sự thỏa thuận là đồng ý với đề nghị của Satan kiểm tra tính trung thực của truyền thuyết cổ nói về việc Đấng Tối Cao tạo ra một thế giới mới và tạo nên Con người. Theo truyền thuyết thì thời gian để tạo ra một thế giới mới đã đến lúc. Nếu sắp tới đây Satan và các thiên thần của mình bị cấm lên Nước Trời thì cần phải giành lấy thế giới sắp được tạo ra, xua đuổi hoặc thôn tình những cư dân ở đó về phía mình để trả thù Đấng Tạo Hóa. Satan cất bước lên đường, vượt qua vực thẳm ngăn cách Địa ngục và Trời, còn Hỗn mang – chúa tể của vực thẳm sẽ chỉ đường cho nó đến thế giới mới.

Đáng Tối Cao ngự trên ngai và Ngài nhìn thấy quá khứ, hiện tại và tương lai, nhìn thấy Satan đang bay về thế giới mới. Ngài nói với Chúa con rằng sẽ tha thứ cho Con người về sự sa ngã nếu con người chịu sự trừng phạt vì đã vi phạm điều cấm chỉ. Từ đây con người và con cháu của nó sẽ phải chết và chỉ có ai hy sinh thân mình để chuộc lỗi thì mới thoát khỏi cái chết. Để cứu rỗi thế giới, Chúa con nói sẽ sẵn sàng hy sinh để Chúa cha chấp nhận. Chúa cha sai Chúa con hóa thành người trần. Các thiên thần trên trời cúi mình trước Chúa con rồi ca tụng Chúa cha và Chúa con.

Lúc này Satan đã bay trên bề mặt của những tinh cầu trong hoàn vũ, bay trong bóng tối trên sa mạc. Satan vượt qua Limbus, Cổng trời và hạ xuống Mặt trời. Trong gương mặt của một thiên thần trẻ tuổi hắn dò hỏi thần mặt trời – Uriel về nơi ở của Con người. Uriel chỉ cho Satan một trong số các hành tinh quay trong quĩ đạo của mình và Satan hạ xuống Trái đất, trên đồi Niphātes. Bay qua cổng thiên đàng, Satan trong hình con quạ biển hạ cánh xuống cây Nhận thức. Satan với ý đồ nham hiểm: sẽ khơi dậy trong con người nỗi khát khao nhận biết để nó sẽ vi phạm điều cấm chỉ của Đấng Sáng Tạo.

Uriel hạ theo tia nắng xuống Gabriel đang canh Thiên đàng, thông báo với Gabriel rằng lúc trưa có một Linh hồn ác từ Trời mang khuôn mặt của một Thiên thần đi về Thiên đàng. Buổi tối Gabriel đi một vòng quanh Thiên đàng. Trong một bụi cây, với những niềm vui và nỗi mệt nhọc sau một ngày lao động, Adam và Eve đang ngủ say. Thiên thần Xephon do Gabriel phái đến đã thấy Satan trong hình một con cóc đang ghé bên tai Eve để làm bùa phép thức dậy những dục vọng và những ý nghĩ tăm tối cùng với vẻ ngạo mạn. Thiên thần dẫn Satan đến gặp Gabriel. Linh hồn nổi loạn đã sẵn sàng nhưng Satan khôn ngoan tránh điều này và bỏ ra đi nhưng không từ bỏ ý định của mình.

Buổi sáng Eve kể cho Adam về giấc mơ của mình: có một ai đấy đã dụ dỗ nàng ăn trái cấm và nàng như được bay lên khỏi mặt đất, cảm thấy một điều sung sướng vô tận.
Chúa Trời phái thiên thần Raphael đến Adam để nói về ý chí tự do của con người và về một Kẻ thù dữ dằn và những ý nghĩ quỷ quyệt của nó. Raphael kể cho Adam về cuộc nổi loạn trên trời: Satan ganh tỵ vì Chúa Trời ca tụng Chúa con và gọi Ngài là Messiah, là Vua nên đã lôi kéo một số thiên thần và thuyết phục để họ chống lại Đáng Tối Cao.

Raphael tiếp tục kể...

Chúa Trời phái các thiên sứ Michael và Gabriel chống lại Satan. Satan lập một Hội đồng và cùng với các chiến hữu nghĩ ra một loại vũ khí đánh bật được các thiên sứ. Khi đó Chúa Trời phái Chúa con đến dẹp loạn. Chúa con đuổi Kẻ thù đến bờ giậu của Bầu trời và bức tường pha lê đổ xuống, những kẻ nổi loạn rơi xuống vực.

Adam bảo Raphael kể cho nghe về việc tạo ra thế giới này. Raphael nói rằng Chúa Trời muốn tạo ra một thế giới mới và những sinh vật sống trên thế giới này sau khi Ngài đã đuổi được Satan và những kẻ nổi loạn xuống Địa ngục. Ngài sẽ cho Chúa con, Lời nói được các thiên thần hộ tống làm việc của mình. Trả lời câu hỏi của Adam về sự chuyển động của các vì tinh tú, Raphael khuyên Adam chỉ nên quan tâm đến những gì mà trí tuệ của con người hiểu được. Adam cũng kể chuyện cho Raphael rằng Adam nhớ từ cái khoảnh khắc được tao ra. Adam thừa nhận với thiên sứ rằng Eve có quyền đối với Adam. Adam hiểu rằng nàng vượt xa mình về sắc đẹp nhưng thua về trí tuệ, mặc dù vậy tất cả lời nói và hành động của nàng đều tuyệt vời và giọng nói của trí tuệ thường im lặng trước vẻ đẹp của phụ nữ. Thiên sứ Raphael không bàn luận về chuyện khoái lạc tình yêu của hai người nhưng dù sao cũng cảnh báo Adam về những đam mê mù quáng và hứa hẹn sẽ có những hạnh phúc trên trời vượt xa những hạnh phúc dưới đất. Nhưng về câu hỏi của Adam – hạnh phúc trên trời là gì thì Rapahel vòng vo và tiếp tục nhắc lại rằng chỉ nên suy nghĩ những gì mà trí tuệ con người nhận thức nổi.

Satan trong hình dạng một màn sương đột nhập vào vườn địa đàng rồi nhập vào một con rắn đang ngủ - là con vật tinh ranh nhất trong muôn loài. Buổi sáng Con rắn tìm Eve rồi dụ dỗ Eve ăn trái cấm từ cây Nhận thức. Con rắn nói rằng nàng sẽ không chết và rằng nhờ trái cấm này mà nó có được lời nói cũng như trí khôn.

Eve bị mắc lừa của Kẻ thù đã ăn trái cấm và đi tìm Adam. Người chồng yêu Eve say đắm đã quyết định làm theo vợ của mình. Ăn trái cấm xong họ cảm thấy một cơn say: nhận thức đánh mất sự sáng tỏ còn trong tâm hồn thức dậy một dục vọng mà sau đó cảm thấy chán nản và xấu hổ. Cả Adam và Eve hiểu rằng Con Rắn hứa hen nhiều điều đã lừa dối họ và họ tự trách nhau.

Chúa Trời cử Chúa con xuống mặt đất để xét tội những kẻ không nghe lời. Lỗi lầm và Cái chết đang ngồi bên cổng vào Địa ngục và chúng đang tìm đường để lên mặt đất. Đi theo con đường mà quỉ Satan đã đi, Lỗi lầm và Cái chết làm một cây cầu xuyên qua Hỗn mang, giữa Địa ngục và thế giới mới.

Lúc này Satan ở trong lâu đài Pandemonium đang nói về chiến thắng với con người. Tuy nhiên Chúa Cha cho rằng Chúa con đang chiến thắng Lỗi lầm và Cái chết và đang phục hồi sự sáng tạo của Ngài.

Eve cảm thấy tuyệt vọng vì một điều rằng sau này con cháu sẽ nguyền rủa họ bèn nói với chồng đi tìm Cái chết để làm sao trở thành những người chết đầu tiên và cuối cùng. Nhưng Adam nhắc vợ về lời hứa, mà theo đó, con cháu sau này đánh dập đầu con rắn. Adam cũng hy vọng ở sự bao dung của Chúa Trời qua việc sám hối và những lời cầu nguyện.

Chúa con cảm thấy sự sám hối chân thành của Adam và Eve thì đã cầu xin cho họ và hy vọng Chúa Trời sẽ giảm nhẹ hình phạt. Chúa Trời phái các thiên thần do Michael dẫn đầu để đuổi Adam và Eve ra khỏi thiên đàng. Trước khi thực hiện lệnh của Chúa Trời, thiên thần Michael đưa Adam lên một ngọn đồi cao và chỉ cho Adam thấy tất cả những gì đang diễn ra trên mặt đất trước khi Đại hồng thủy xảy ra.

Thiên thần Michael kể cho Adam nghe về số phận của loài người và giải thích về lời hứa gia truyền. Ngài nói về cái chết, sự hồi sinh và sự thăng thiên của Chúa con cũng như việc nhà thờ sẽ tồn tại ra sao trước khi Chúa giáng sinh. Adam được an ủi bèn thức Eve đang ngủ dậy và thiên thần Michael đưa hai người ra khỏi vườn địa đàng. Từ đó cổng vào vườn này được canh gác cẩn mật và bảo vệ bằng thanh kiếm lửa hướng về phía trước. Ấp ủ trong tim một niềm hy vọng về sự cứu rỗi cho loài người, Adam và Eve vui vẻ bước ra khỏi vườn địa đàng.

Thơ tình Robert Graves




CUỘC CHƠI KẾT THÚC

(End of play)

Đã kết thúc cuộc chơi, và muôn thuở
Ta, mọi người vẫn thú nhận đôi khi
Hoặc nhìn vào bầu trời xanh xưa cũ
Một màu xanh như áo của Mary.

Ta ngỡ rằng đời vẫn cứ nhởn nhơ
Và thơ thẩn giữa đất trời mùa hạ
Ánh sáng chói chang, màu xanh hoa cỏ
Và lòng tin hạ cố từ trời kia.

Cứ ngỡ: gương và tiếng vọng nghìn thu
Hoà nhập với tầm nhìn và tiếng động
Tiệng gọi lòng tin không còn can đảm
Vang lên như lời than vãn: “Tôi mù!”

Sao người đời than khóc thật vu vơ
Chẳng khác gì khóc không còn răng sữa
Có những kẻ khóc nức nở và quì
Đầu gối, kêu vẻ sầu bi của Chúa.

Ta đã thôi không gian lận, dối lừa
Đã không còn nghĩ suy như ngày cũ
Trong rừng rậm hổ báo và sư tử
Vẫn rập rình chờ nhảy xổ vào ta.

Và đam mê không dối gian mời mọc
Vào điệu nhảy xưa vô tội những ai
Từ cái chạm luống cuống của bàn tay
Đến cái ôm choàng ngất ngây lồng ngực.

Nhưng tình yêu vẫn sống – như vết khắc
Dưới lưỡi rìu của đao phủ tang thương
Và xác thân bất động ở trong gương
Những kỷ niệm xưa vẫn nhìn thấy hết.


End of Play

 We have reached the end of pastime, for always,
  Ourselves and everyone, though few confess it
  Or see the sky other than, as of old,
  A foolish smiling Mary-mantle blue;

  Though life may still seem to dawdle golden
  In some June landscape among giant flowers,
  The grass to shine as cruelly green as ever,
  Faith to descend in a chariot from the sky –

  May seem only: a mirror and an echo
  Mediate henceforth with vision and sound.
  The cry of faith, no longer mettlesome,
  Sounds as a blind man’s pitiful plea of ‘blind’.

  We have at last ceased idling, which to regret
  Were as shallow as to ask our milk-teeth back;
  As many forthwith do, and on their knees
  Call lugubriously upon chaste Christ.

  We tell no lies now, at last cannot be
  The rogues we were – so evilly linked in sense
  With what we scrutinized that lion or tiger
  Could leap from every copse, strike and devour us.

  No more shall love in hypocritic pomp
  Conduct its innocents through a dance of shame,
  From timid touching of gloved fingers
  To frantic laceration of naked breasts.

  Yet love survives, the word carved on a sill
  Under antique dread of the headsman’s axe;
  It is the echoing mind, as in the mirror
  We stare on our dazed trunks at the block kneeling.

VƯƠNG QUỐC BÍ ẨN
(The secret land)

Ở mỗi một người phụ nữ hoàng gia
Có vương quốc bí ẩn, còn hiện thực
Hơn cõi trần màu xám ở quanh ta.

Giờ nửa đêm, khi ngôi nhà lặng lẽ
Nàng bỏ sách, thôi cuốn chỉ xe tơ
Rồi đi vào vương quốc bí ẩn nọ.

Nàng chau mày rồi kéo chắn song
Giữa những cây bạch dương cao lớn
Và nàng đưa ra đòi hỏi của mình.

Chạy, hoặc bay, hoặc ngồi trên ngựa phóng
(Ngựa, tất nhiên, là tự đến với nàng)
Và đi về nơi mà nàng muốn đến.

Nàng làm cho hoa cỏ phải lớn lên
Gọi hoa huệ nở hoa từ những nụ
Đưa thức ăn cho cá tự tay mình.

Trồng những đồi cây, xây những ngôi làng
Thung lũng vui nhờ những dòng suối mát
Nước lạnh đổ vào hồ đất bao quanh.

Tôi chưa bao giờ dám đi hỏi nàng
Như quyền lực mà nàng thơ có được
Hay về địa lý, về suối về sông.

Tôi không lẻn vào giữa rừng bạch dương
Và không gác chân ngôi lên trên cổng
Rồi ngó nhìn vào màn sương mơ màng.

Có phải vì thế mà nàng hứa hẹn
Khi tôi qua đời nàng tặng cho tôi
Một túp lều ở gần bên cung điện
Của riêng nàng, luôn có những hoa tươi
Nơi mà sau này chúng tôi sẽ đến.


The Secret Land

Every woman of true royalty owns
A secret land more real to her
Than this pale outer world:

At midnight when the house falls quiet
She lays aside needle or book
And visits it unseen.

Shutting her eyes, she improvises
A five-barred gate among tall birches,
Vaults over, takes possession.

Then runs, or flies, or mounts a horse
(A horse will canter up to greet her)
And travels where she will;

Can make grass grow, coax lilies up
From bud to blossom as she watches,
Lets fish eat out of her palm.

Has founded villages, planted groves
And hollowed valleys for brooks running
Cool to a land-locked bay.

I never dared question my muse
About the government of her queendom
Or its geography,

Nor followed her between those birches,
Setting one leg astride the gate,
Spying into the mist.

Yet she has pledged me, when I die,
A lodge beneath her private palace
In a level clearing of the wood
Where gentians grow and gillyflowers
And sometimes we may meet.


HỒNG NGỌC VÀ THẠCH ANH TÍM 
(Ruby and Amethyst) 

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Luôn chung thủy với người chồng sung sức.
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Nhưng chỉ thủy chung với chính mình thôi.

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Luôn trung thành với những gì thề thốt.
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Nhưng không bao giờ thề thốt cùng ai.

Một phụ nữ đeo hồng ngọc trên mình
Nhưng với niềm vui vô cùng giản dị
Để mắt người lạ nhìn vào chỉ nghĩ
Là thủy tinh nên chẳng ngắm gần hơn. 

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Trong thành phố là người cao quí nhất.
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Không cần một ai khen ngợi công khai. 

Người này mang thạch anh tím trên người
Và trong đó có khu vườn rộng lớn
Mắt bạn có thể hàng giờ thơ thẩn
Và lang thang để đánh mất mình thôi. 

Trên đầu nàng chim én luôn bay lượn
Có vẻ như nàng vô thủy vô chung
Và vẻ nữ tính để hiểu đến cùng
Thì đàn ông không thể nào thấu tận.

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Chịu đựng tất cả tiết trời khắc nghiệt
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Mọi tiết trời ở trong chính nàng thôi. 

Ruby and Amethyst

Two women: one as good as bread, 
Bound to a sturdy husband.
Two women: one as rare as myrrh, 
Bound only to herself.

Two women: one as good as bread, 
Faithful to every promise.
Two women: one as rare as myrrh, 
Who never pledges faith.

The one a flawless ruby wears, 
But with such innocent pleasure, 
A stranger's eye might think it glass
And take no closer look.

Two women: one as good as bread, 
The noblest of the city.
Two women: one as rare as myrrh, 
Who needs no public praise.

The pale rose-amethyst on her breast
Has such a garden in it
Your eye could wonder there for hours, 
And wonder, and be lost.

About her head a swallow wheels
Noe ever breaks the circuit: 
Glory and awe of womanhood
Still undeclared to man.

Two women: one as good as bread, 
Resistant to all weathers,
Two women: one as rare as myrrh,
Her weather still her own.

Thơ tình Edith Sitwell



MƯA RƠI
 (Still falls the Rain)

Mưa rơi
Tối như cõi người đời, đen như những gì đã mất
Mù như năm 1940
Trên cây thập ác.

Mưa rơi
Tiếng động như nhịp con tim, như búa đang gõ đập
Trên ruộng của Thợ gốm(1), tiếng bước chân của những kẻ lỗi lầm
Trên quan tài:
Tiếng mưa gõ nhịp
Trên đất của Huyết, nơi hy vọng nuôi trí tuệ người trần
Giun vẫn khát khao vầng trán của Cain.

Mưa rơi
Dưới chân Người, trên cây thập ác
Nơi Chúa bị đóng đinh. Suốt đêm mỏi mệt
Xin độ lượng với Người Giàu và cả La-xa-rơ(2)
Mưa rơi trên vải mịn và trên ghẻ khắp người.

Mưa rơi
Huyết của Người bị đóng đinh rơi xuống
Những đau khổ của thế gian trong tim người trú ẩn
Tia lửa trong phút lâm chung
Trong tim kẻ quyên sinh và nỗi buồn của bóng đêm câm nín
Vết thương của con gấu mù(3)
Bị người đánh roi đuổi ra…
Và nước mắt đầm đìa của thỏ(4).

Mưa rơi
Tôi giơ tay đến Chúa(5)
Huyết của Giê-su chảy xuống giữa đời
Huyết từ trán chảy trên cây(6)
Giờ hấp hối con tim người khát nước
Ngọn lửa bùng lên, đớn đau bàn chân bước
Mũ gai trên đầu như vòng nguyệt quế của Caesar(7).
Một giọng nói vang lên – của người sống trên trần
Thuở ấu thơ sinh ra trong máng cỏ, trong chuồng(8)
“Ta yêu con người, Huyết của ta - ánh sáng trinh nguyên – cho con người rót xuống”.
___________

(1)Ruộng của Thợ gốm – theo Kinh Phúc âm: sau khi Giê-su bị bắt, Giu-đa – kẻ phản bội, cảm thấy hối hận bèn đem ba chục miếng bạc trả cho các thầy tế lễ nhưng họ lượm bạc và nói rằng: “Không có phép để bạc này trong kho thánh, vì là giá của huyết”. Rồi họ bàn với nhau dùng bạc mua ruộng của người làm gốm để chôn những khách lạ. Ruộng ấy đến nay còn gọi là “ruộng huyết” (Ma-thi-ơ 27:3-8).
(2)Người Giàu và La-xa-rơ (Dives and Lazarus) – theo Luca người nghèo Lazarus được lên thiên đàng còn người giàu Dives phải về địa ngục (Luca 16: 19-31).
(3)Vết thương của con gấu mù – Sitwell muốn nói về một trò thời trung cổ: xua bầy chó vào con gấu bị xích.
(4)Nước mắt của thỏ – theo truyền thuyết, ngay cả những con thú cũng khóc khi Giê-su chết.
(5)Tôi giơ tay đến Chúa – câu trích từ bi kịch “Doctor Faustus” của Christopher Marlowe (1564 – 1593).
(6)Huyết từ trán chảy trên cây – tức cây để đóng đinh Chúa Giê-su trên đó.
(7)So sánh cái mũ gai Chúa Giêu-su đội trên đầu trước khi bị đóng đinh với vòng nguyệt quế của Caesar,
(8)Theo Kinh Phúc âm: Chúa Giê-su khi sinh ra được đặt nằm trong máng cỏ vì nhà chật chội (Luca 2:7).


Still Falls the Rain
(The Raids, 1940: Night and Dawn)

Still falls the Rain –
Dark as the world of man, black as our loss –
Blind as the nineteen hundred and forty nails upon the Cross.

Still falls the Rain
With a sound like the pulse of the heart that is changed to the hammer beat
In the Potter’s Field, and the sound of the impious feet.

On the Tomb:
                             Still falls the Rain
In the Field of Blood where the small hopes breed and the human brain
Nurtures its greed, that worm with the brow of Cain.

Still falls the Rain
At the feet of the Starved Man hung upon the Cross,
Christ that each day, each night, nails there, have mercy on us –
On Dives and on Lazarus:
Under the Rain the sore and the gold are as one.

Still falls the Rain –
Still falls the Blood from the Starved Man’s wounded Side:
He bears in His Heart all wounds, – those of the light that died,
The last faint spark
In the self-murdered heart, the wounds of the sad uncomprehending dark,
The wounds of the baited bear, –
The blind and weeping bear whom the keepers beat
On his helpless flesh … the tears of the hunted hare.

Still falls the Rain –
Then – O Ile leape up to my God: who pulles me doune –
See see where Christ’s blood streames in the firmament.
It flows from the Brow we nailed upon the tree
Deep to the dying, to the thirsting heart
That holds the fire of the world, – dark-smirched with pain
As Caesar’s laurel crown.
Then sounds the voice of One who like the heart of man
Was once a child who among beasts has lain –
“Still do I love, still shed my innocent light, my Blood, for thee.”