Heinrich Heine
GỬI JENNY
Tôi bây giờ đã là ba lăm tuổi
Còn em thì chỉ vừa mới mười lăm
Nhưng mỗi lần nhìn em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!
Vào năm một nghìn tám trăm mười bảy
Tôi gặp một người con gái như em
Mái tóc của nàng giống như em vậy
Giống cả nụ cười, dáng vẻ tự nhiên.
Thế rồi tôi bước vào trường Đại học
Tôi dặn nàng: “Hãy gắng đợi chờ anh
Anh sẽ quay về một ngày gần nhất”
Nàng nói rằng: “Em mãi mãi của anh”.
Ba năm trời học ở Göttingen
Ba năm miệt mài với bao sách luật
Thế rồi một hôm nhận thư biết được
Người yêu của tôi đã bước theo chồng.
Khi đó tháng Năm, khi đó mùa xuân
Những bông hoa nở đầy trong thung lũng
Những con chim đã cất tiếng hót vang
Những con sâu cũng vui đùa trong nắng.
Nhưng tôi buồn, xanh xao và u ám
Vì buồn đau mà sức lực không còn
Chỉ có Chúa Trời may ra thấu tận
Những điều gì tôi đã chịu hằng đêm.
Nhưng tôi phục hồi. Như cây sồi xanh
Vẻ mạnh mẽ hiện trong từng nhánh lá
Giờ mỗi lần nhìn em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!
An Jenny
Ich bin nun fünfunddreißig Jahr alt,
Und du bist fünfzehnjährig kaum ...
O Jenny, wenn ich dich betrachte,
Erwacht in mir der alte Traum!
Im Jahre achtzehnhundert siebzehn
Sah ich ein Mädchen, wunderbar
Dir ähnlich an Gestalt und Wesen,
Auch trug sie ganz wie du das Haar.
Ich geh auf Universitäten,
Sprach ich zu ihr, ich komm zurück
In kurzer Zeit, erwarte meiner.
Sie sprach: "Du bist mein einzges Glück."
Drei Jahre schon hatt ich Pandekten
Studiert, als ich am ersten Mai
Zu Göttingen die Nachricht hörte,
Daß meine Braut vermählet sei.
Es war am ersten Mai! Der Frühling
Zog lachend grün durch Feld und Tal,
Die Vögel sangen, und es freute
Sich jeder Wurm im Sonnenstrahl.
Ich aber wurde blaß und kränklich,
Und meine Kräfte nahmen ab;
Der liebe Gott nur kann es wissen,
Was ich des Nachts gelitten hab.
Doch ich genas. Meine Gesundheit
Ist jetzt so stark wie'n Eichenbaum ...
O Jenny, wenn ich dich betrachte,
Erwacht in mir der alte Traum!
HÌNH DẠNG CỦA NHÂN SƯ
Hình dạng của Nhân sư*
Gán vào người phụ nữ
Chỉ khác phần phụ là
Thân hình con sư tử.
Bóng đen của cái chết
Đây quả đúng Nhân sư
Câu hỏi không giải ra
Cha của chàng Ê-đíp**.
Cũng may, lời giải đáp
Tôi không đủ sức làm
Nếu không, cả thế gian
Sẽ hoang tàn đổ nát.
___________
*Nhân sư (Sphinx) - là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp.
**Ê-đíp (Oedipus) – là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử, Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình.
Die Gestalt der wahren Sphinx
Die Gestalt der wahren Sphinx
Weicht nicht ab von der des Weibes;
Faselei ist jener Zusatz
Des betatzten Löwenleibes.
Todesdunkel ist das Rätsel
Dieser wahren Sphinx. Es hatte
Kein so schweres zu erraten
Frau Jokastens Sohn und Gatte.
Doch zum Glücke kennt sein eignes
Rätsel nicht das Frauenzimmer;
Spräch es aus das Lösungswort,
Fiele diese Welt in Trümmer.
VỢ CHỒNG KẺ CẮP
Khi Laura say sưa
Hôn tôi và âu yếm
Thì anh chồng khốn nạn
Lấy sạch tiền của tôi.
Bây giờ túi tôi rỗng
Chẳng lẽ tại Laura
Lẽ thật là cái gì?
Phi-lát đâu cần chứng*.
Thế giới này dối gian
Tôi cần mau từ giã
Sống mà không có tiền
Coi như chết một nửa.
Hỡi những hồn hằng phúc
Tôi muốn về đó ngay
Nơi đó có đủ đầy
Không ai cần ăn cắp.
_______
*Lẽ thật là cái gì? – đây là câu mà quan xét xử Phi-lát hỏi Giêsu trong Kinh Thánh (Giăng, 18: 38).
Schnapphahn und Schnapphenne
Derweilen auf dem Lotterbette
Mich Lauras Arm umschlang - der Fuchs,
Ihr Herr Gemahl, aus meiner Buchs
Stibitzt er mir die Bankbillette.
Da steh ich nun mit leeren Taschen!
War Lauras Kuß gleichfalls nur Lug?
Ach! Was ist Wahrheit? Also frug
Pilat und tät die Händ sich waschen.
Die böse Welt, die so verdorben,
Verlaß ich bald, die böse Welt.
Ich merke: hat der Mensch kein Geld,
So ist der Mensch schon halb gestorben.
Nach Euch, Ihr ehrlich reinen Seelen,
Die Ihr bewohnt das Reich des Lichts,
Sehnt sich mein Herz. Dort braucht Ihr nichts,
Und braucht deshalb auch nicht zu stehlen.
ĂN MẶN ĂN CHAY
Bạn tôi ơi, phạm thượng!
Khi bạn làm điều này:
Bỏ Hanne tròn lẳn
Để yêu Marianne gầy!
Nếu yêu thịt – thì bạn
Được coi là bình thường
Còn phóng đãng với xương
Điều này là ghê tởm.
Quỉ Sa tăng nham hiểm
Đưa ta vào bẫy đây
Giống như người ăn mặn
Bỗng dưng thích ăn chay.
Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig
Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig
Wirst du deiner fetten Hanne,
Und du liebst jetzt jene spinnig
Dürre, magre Marianne!
Läßt man sich vom Fleische locken,
Das ist immer noch verzeihlich;
Aber Buhlschaft mit den Knochen,
Diese Sünde ist abscheulich!
Das ist Satans böse Tücke,
Er verwirret unsre Sinne:
Wir verlassen eine Dicke,
Und wir nehmen eine Dünne!
VẾT THƯƠNG HẠNH PHÚC
Khi có em trong tay!
Một niềm vui hạnh phúc
Trong lòng tôi tràn ngập
Những mơ ước diệu kỳ.
Khi có em trong tay!
Tôi hôn lên mái tóc
Mái tóc vàng tuyệt đẹp
Buông xõa trên vai này.
Khi có em trong tay!
Tôi tin rằng hiện thực
Cõi thiên đường hạnh phúc
Ngay trên mặt đất này.
Nhưng như Thánh ngờ vực!
Tôi còn nghi điều này
Khi chưa đặt ngón tay
Vào vết thương hạnh phúc.
____________
*Thánh ngờ vực (Thomas) – tức Thánh Tô-ma tông đồ hay còn gọi là Tô-ma đa nghi hoặc Đi-đi-mô (Didymos). Là một trong 12 tông đồ của Giêsu, Ngài không tin bất cứ điều gì khi không chỉ nhìn tận mặt mà còn phải sờ tận tay (Giăng, 20: 25-28).
Tôi bây giờ đã là ba lăm tuổi
Còn em thì chỉ vừa mới mười lăm
Nhưng mỗi lần nhìn em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!
Vào năm một nghìn tám trăm mười bảy
Tôi gặp một người con gái như em
Mái tóc của nàng giống như em vậy
Giống cả nụ cười, dáng vẻ tự nhiên.
Thế rồi tôi bước vào trường Đại học
Tôi dặn nàng: “Hãy gắng đợi chờ anh
Anh sẽ quay về một ngày gần nhất”
Nàng nói rằng: “Em mãi mãi của anh”.
Ba năm trời học ở Göttingen
Ba năm miệt mài với bao sách luật
Thế rồi một hôm nhận thư biết được
Người yêu của tôi đã bước theo chồng.
Khi đó tháng Năm, khi đó mùa xuân
Những bông hoa nở đầy trong thung lũng
Những con chim đã cất tiếng hót vang
Những con sâu cũng vui đùa trong nắng.
Nhưng tôi buồn, xanh xao và u ám
Vì buồn đau mà sức lực không còn
Chỉ có Chúa Trời may ra thấu tận
Những điều gì tôi đã chịu hằng đêm.
Nhưng tôi phục hồi. Như cây sồi xanh
Vẻ mạnh mẽ hiện trong từng nhánh lá
Giờ mỗi lần nhìn em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!
An Jenny
Ich bin nun fünfunddreißig Jahr alt,
Und du bist fünfzehnjährig kaum ...
O Jenny, wenn ich dich betrachte,
Erwacht in mir der alte Traum!
Im Jahre achtzehnhundert siebzehn
Sah ich ein Mädchen, wunderbar
Dir ähnlich an Gestalt und Wesen,
Auch trug sie ganz wie du das Haar.
Ich geh auf Universitäten,
Sprach ich zu ihr, ich komm zurück
In kurzer Zeit, erwarte meiner.
Sie sprach: "Du bist mein einzges Glück."
Drei Jahre schon hatt ich Pandekten
Studiert, als ich am ersten Mai
Zu Göttingen die Nachricht hörte,
Daß meine Braut vermählet sei.
Es war am ersten Mai! Der Frühling
Zog lachend grün durch Feld und Tal,
Die Vögel sangen, und es freute
Sich jeder Wurm im Sonnenstrahl.
Ich aber wurde blaß und kränklich,
Und meine Kräfte nahmen ab;
Der liebe Gott nur kann es wissen,
Was ich des Nachts gelitten hab.
Doch ich genas. Meine Gesundheit
Ist jetzt so stark wie'n Eichenbaum ...
O Jenny, wenn ich dich betrachte,
Erwacht in mir der alte Traum!
HÌNH DẠNG CỦA NHÂN SƯ
Hình dạng của Nhân sư*
Gán vào người phụ nữ
Chỉ khác phần phụ là
Thân hình con sư tử.
Bóng đen của cái chết
Đây quả đúng Nhân sư
Câu hỏi không giải ra
Cha của chàng Ê-đíp**.
Cũng may, lời giải đáp
Tôi không đủ sức làm
Nếu không, cả thế gian
Sẽ hoang tàn đổ nát.
___________
*Nhân sư (Sphinx) - là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp.
**Ê-đíp (Oedipus) – là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử, Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình.
Die Gestalt der wahren Sphinx
Die Gestalt der wahren Sphinx
Weicht nicht ab von der des Weibes;
Faselei ist jener Zusatz
Des betatzten Löwenleibes.
Todesdunkel ist das Rätsel
Dieser wahren Sphinx. Es hatte
Kein so schweres zu erraten
Frau Jokastens Sohn und Gatte.
Doch zum Glücke kennt sein eignes
Rätsel nicht das Frauenzimmer;
Spräch es aus das Lösungswort,
Fiele diese Welt in Trümmer.
VỢ CHỒNG KẺ CẮP
Khi Laura say sưa
Hôn tôi và âu yếm
Thì anh chồng khốn nạn
Lấy sạch tiền của tôi.
Bây giờ túi tôi rỗng
Chẳng lẽ tại Laura
Lẽ thật là cái gì?
Phi-lát đâu cần chứng*.
Thế giới này dối gian
Tôi cần mau từ giã
Sống mà không có tiền
Coi như chết một nửa.
Hỡi những hồn hằng phúc
Tôi muốn về đó ngay
Nơi đó có đủ đầy
Không ai cần ăn cắp.
_______
*Lẽ thật là cái gì? – đây là câu mà quan xét xử Phi-lát hỏi Giêsu trong Kinh Thánh (Giăng, 18: 38).
Schnapphahn und Schnapphenne
Derweilen auf dem Lotterbette
Mich Lauras Arm umschlang - der Fuchs,
Ihr Herr Gemahl, aus meiner Buchs
Stibitzt er mir die Bankbillette.
Da steh ich nun mit leeren Taschen!
War Lauras Kuß gleichfalls nur Lug?
Ach! Was ist Wahrheit? Also frug
Pilat und tät die Händ sich waschen.
Die böse Welt, die so verdorben,
Verlaß ich bald, die böse Welt.
Ich merke: hat der Mensch kein Geld,
So ist der Mensch schon halb gestorben.
Nach Euch, Ihr ehrlich reinen Seelen,
Die Ihr bewohnt das Reich des Lichts,
Sehnt sich mein Herz. Dort braucht Ihr nichts,
Und braucht deshalb auch nicht zu stehlen.
ĂN MẶN ĂN CHAY
Bạn tôi ơi, phạm thượng!
Khi bạn làm điều này:
Bỏ Hanne tròn lẳn
Để yêu Marianne gầy!
Nếu yêu thịt – thì bạn
Được coi là bình thường
Còn phóng đãng với xương
Điều này là ghê tởm.
Quỉ Sa tăng nham hiểm
Đưa ta vào bẫy đây
Giống như người ăn mặn
Bỗng dưng thích ăn chay.
Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig
Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig
Wirst du deiner fetten Hanne,
Und du liebst jetzt jene spinnig
Dürre, magre Marianne!
Läßt man sich vom Fleische locken,
Das ist immer noch verzeihlich;
Aber Buhlschaft mit den Knochen,
Diese Sünde ist abscheulich!
Das ist Satans böse Tücke,
Er verwirret unsre Sinne:
Wir verlassen eine Dicke,
Und wir nehmen eine Dünne!
VẾT THƯƠNG HẠNH PHÚC
Khi có em trong tay!
Một niềm vui hạnh phúc
Trong lòng tôi tràn ngập
Những mơ ước diệu kỳ.
Khi có em trong tay!
Tôi hôn lên mái tóc
Mái tóc vàng tuyệt đẹp
Buông xõa trên vai này.
Khi có em trong tay!
Tôi tin rằng hiện thực
Cõi thiên đường hạnh phúc
Ngay trên mặt đất này.
Nhưng như Thánh ngờ vực!
Tôi còn nghi điều này
Khi chưa đặt ngón tay
Vào vết thương hạnh phúc.
____________
*Thánh ngờ vực (Thomas) – tức Thánh Tô-ma tông đồ hay còn gọi là Tô-ma đa nghi hoặc Đi-đi-mô (Didymos). Là một trong 12 tông đồ của Giêsu, Ngài không tin bất cứ điều gì khi không chỉ nhìn tận mặt mà còn phải sờ tận tay (Giăng, 20: 25-28).
Der Ungläubige
Du wirst in meinen Armen ruhn!
Von Wonnen sonder Schranken
Erbebt und schwillt mein ganzes Herz
Bei diesem Zaubergedanken.
Du wirst in meinen Armen ruhn!
Ich spiele mit den schönen
Goldlocken! Dein holdes Köpfchen wird
An meine Schultern lehnen.
Du wirst in meinen Armen ruhn!
Der Traum will Wahrheit werden,
Ich soll des Himmels höchste Lust
Hier schon genießen auf Erden.
O, heil’ger Thomas! Ich glaub’ es kaum!
Ich zweifle bis zur Stunde,
Wo ich den Finger legen kann
In meines Glückes Wunde.
Du wirst in meinen Armen ruhn!
Von Wonnen sonder Schranken
Erbebt und schwillt mein ganzes Herz
Bei diesem Zaubergedanken.
Du wirst in meinen Armen ruhn!
Ich spiele mit den schönen
Goldlocken! Dein holdes Köpfchen wird
An meine Schultern lehnen.
Du wirst in meinen Armen ruhn!
Der Traum will Wahrheit werden,
Ich soll des Himmels höchste Lust
Hier schon genießen auf Erden.
O, heil’ger Thomas! Ich glaub’ es kaum!
Ich zweifle bis zur Stunde,
Wo ich den Finger legen kann
In meines Glückes Wunde.
BÂY GIỜ TÔI MỚI NÓI
Cái chết về. Bây giờ tôi mới nói
Đành bỏ qua thề thốt một lời nguyền
Rằng con tim đã bao năm nhức nhối
Một nỗi buồn mòn mỏi chỉ vì em.
Quan tài đợi. Và bóng đen cau có
Tôi ngủ quên trong giấc ngủ muôn đời
Chỉ mình em, Maria, hãy nhớ
Chỉ mình em khóc thương tiếc cho tôi.
Bàn tay đẹp em nhớ đừng làm hỏng
Chỉ thế thôi số phận của con người
Ai chỉ sống với cuộc đời cao thượng
Khi chết rồi chỉ còn tiếc mà thôi.
Es kommt der Tod - jetzt will ich sagen
Es kommt der Tod - jetzt will ich sagen,
Was zu verschweigen ewiglich
Mein Stolz gebot: für dich, für dich,
Es hat mein Herz für dich geschlagen!
Der Sarg ist fertig, sie versenken
Mich in die Gruft. Da hab ich Ruh.
Doch du, doch du, Maria, du
Wirst weinen oft und mein gedenken.
Du ringst sogar die schönen Hände -
O tröste dich - Das ist das Los,
Das Menschenlos: - was gut und groß
Und schön, das nimmt ein schlechtes Ende.
CÔ GÁI BÊN BỜ BIỂN
Cô gái bên bờ biển
Đưa mắt nhìn hoàng hôn
Cô thở dài ngao ngán
Nhìn hoàng hôn sắp tàn.
Cô gái ơi đừng khóc
Tất cả sẽ qua mau
Mặt trời chìm phía trước
Rồi thức dậy phía sau.
Das Fräulein stand am Meere
Das Fräulein stand am Meere
Und seufzte lang und bang,
Es rührte sie so sehre
Der Sonnenuntergang.
Mein Fräulein! sein Sie munter,
Das ist ein altes Stück;
Hier vorne geht sie unter
Und kehrt von hinten zurück.
Phụ nữ như bọ chét
Nhiều bọ chét – ngứa nhiều
Âm thầm chịu đớn đau
Chẳng còn cách nào khác.
Họ trả thù tinh khôn
Thức giấc trong đêm vắng
Bạn ôm nàng âu yếm
Nàng với bạn – quay lưng.
Zum Hausfrieden
Viele Weiber, viele Flöhe,
Viele Flöhe, vieles Jucken –
Thun sie heimlich dir ein Wehe,
Darfst du dennoch dich nicht mucken.
Denn sie rächen, schelmisch lächelnd,
Sich zur Nachtzeit – Willst du drücken
Sie an’s Herze, lieberöchelnd,
Ach, da dreh’n sie dir den Rücken.
VỚI NHỮNG CÔ GÁI ĐẦN
Với những cô gái đần, tôi thường nghĩ
Khó mà làm ăn với kẻ ngu đần
Nhưng khi tôi gặp những cô thông minh
Thì hiểu rằng còn khó hơn thế nữa.
Người thông minh thì lại quá khôn ngoan
Nhiều câu hỏi làm tôi mất kiên nhẫn
Và khi tôi hỏi họ điều quan trọng
Thì họ mỉm cười một cách tinh ranh.
Mit dummen Mädchen, hab ich gedacht
Mit dummen Mädchen, hab ich gedacht,
Nichts ist mit dummen anzufangen;
Doch als ich mich an die klugen gemacht,
Da ist es mir noch schlimmer ergangen.
Die klugen waren mir viel zu klug,
Ihr Fragen machte mich ungeduldig,
Und wenn ich selber das Wichtigste frug,
Da blieben sie lachend die Antwort schuldig.
DAN DÍU VỚI ĐÀN BÀ
Dan díu với đàn bà bạn hãy nên khiêm tốn
Hãy nhớ tiết kiệm lời và đừng vội nói tên
Bởi nếu nàng tốt – thì cho nàng giữ kín
Còn nếu không – thì cũng giữ cho mình.
Hast du vertrauten Umgang mit Damen
Hast du vertrauten Umgang mit Damen,
Schweig, Freundchen, stille und nenne nie Namen:
Um ihrentwillen, wenn sie fein sind,
Um deinetwillen, wenn sie gemein sind.
TRÊN BẢO DƯỚI KHÔNG NGHE
Một cô gái tóc đen
Đưa bàn tay ve vuốt
Mái đầu tôi đã bạc
Nước mắt chảy ròng ròng.
Người tôi bị uốn cong
Nụ hôn làm mù mắt
Héo hon trong đầu óc
Vì những nụ hôn nồng.
Thân tôi như xác chết
Linh hồn bị cầm tù
Trên bảo dưới không nghe
Chẳng biết làm sao được.
Sự bất lực chết tiệt!
Giống như một bầy ruồi
Chỉ đành chịu đựng thôi
Đành nguyện cầu và khóc.
Es hatte mein Haupt die schwarze Frau
Es hatte mein Haupt die schwarze Frau
Zärtlich an’s Herz geschlossen;
Ach! meine Haare wurden grau,
Wo ihre Thränen geflossen.
Sie küßte mich lahm, sie küßte mich krank,
Sie küßte mir blind die Augen;
Das Mark aus meinem Rückgrat trank
Ihr Mund mit wildem Saugen.
Mein Leib ist jetzt ein Leichnam, worin
Der Geist ist eingekerkert –
Manchmal wird ihm unwirsch zu Sinn,
Er tobt und rast und berserkert.
Ohnmächtige Flüche! Dein schlimmster Fluch
Wird keine Fliege tödten.
Ertrage die Schickung, und versuch’
Gelinde zu flennen, zu beten.
HÃY NGUYỆN CẦU ĐỨC MẸ
Hãy nguyện cầu Đức Mẹ
Và hai thánh Phúc Âm*.
Nhưng hôm nay anh chỉ
Cầu mặt trời của anh.
Hỡi mặt trời dịu dàng
Cho anh xin nụ hôn
Hãy cười cùng thi sĩ
Hỡi mặt trời của anh.
______
*Thánh Phaolô và Phêrô (Paul và Peter).
Andre beten zur Madonne
Andre beten zur Madonne,
Andre auch zu Paul und Peter;
Ich jedoch, ich will nur beten,
Nur zu dir, du schöne Sonne.
Gib mir Küsse, gib mir Wonne,
Sei mir gütig, sei mir gnädig,
Schönste Sonne unter den Mädchen,
Schönstes Mädchen unter der Sonne!
ÁNH TRĂNG
Ánh trăng soi sóng sánh
Trên sóng biển rì rào
Trăng trên trời yên lặng
Và sáng tỏ biết bao.
Em cũng vậy, lặng yên
Đi trên đường sáng tỏ
Nhưng bóng em rung lên
Trong tim này run rẩy.
Wie des Mondes Abbild zittert
Wie des Mondes Abbild zittert
In den wilden Meereswogen,
Und er selber still und sicher
Wandelt an dem Himmelsbogen:
Also wandelst du, Geliebte,
Still und sicher, und es zittert
Nur dein Abbild mir im Herzen,
DÙ EM Ở ĐÂU
Dù em ở đâu thì anh vẫn thế
Ở khắp nơi, anh vẫn gặp hàng ngày
Em càng muốn xa anh, càng khó dễ
Anh lại càng yêu em đến mê say.
Cơn giận của em làm anh dễ chịu
Trước mặt em anh luống cuống, ngại ngùng.
Nếu em muốn cho anh thôi quấy nhiễu
Hãy nhớ rằng em cần phải yêu anh.
Überall, wo du auch wandelst
Überall, wo du auch wandelst,
Schaust du mich zu allen Stunden,
Und je mehr du mich mißhandelst,
Treuer bleib ich dir verbunden.
Denn mich fesselt holde Bosheit,
Wie mich Güte stets vertrieben;
Willst du sicher meiner los sein,
Mußt du dich in mich verlieben.
NHỮNG BÔNG HOA VƯƠN MÌNH
Những bông hoa vươn mình
Phía ánh mặt trời hướng đến
Và sông gửi từng con sóng
Về phía biển xanh.
Còn tôi, những bài ca của mình
Tôi đem gửi cho người tôi yêu mến
Cả nước mắt, cả những lời đau đớn
Bài ca ơi, hãy mang đến cho nàng.
Es schauen die Blumen alle
Es schauen die Blumen alle
Zur leuchtenden Sonne hinauf;
Es nehmen die Ströme alle
Zum leuchtenden Meere den Lauf.
Es flattern die Lieder alle
Zu meinem leuchtenden Lieb;
Nehmt mit meine Tränen und Seufzer,
Ihr Lieder, wehmütig und trüb!
ANH ĐÃ KHÓC
Anh đã khóc trong giấc mơ của mình
Vì thấy em đã nằm yên trong mộ
Anh tỉnh giấc, và bây giờ dòng lệ
Vẫn chảy dài trên đôi má của anh.
Anh đã khóc trong giấc mơ của mình
Vì thấy em không còn yêu anh nữa
Anh tỉnh giấc, và đã khóc nức nở
Khóc thật lâu cho cay đắng cuộc tình.
Anh đã khóc trong giấc mơ của mình
Khi thấy em vẫn yêu anh như thế
Anh tỉnh giấc, và bây giờ dòng lệ
Vẫn chảy thành dòng trên má của anh.
Ich hab im Traum geweinet
Ich hab im Traum geweinet,
Mir träumte, du lägest im Grab.
Ich wachte auf, und die Träne
Floß noch von der Wange herab.
Ich hab im Traum geweinet,
Mir träumt', du verließest mich.
Ich wachte auf, und ich weinte
Noch lange bitterlich.
Ich hab im Traum geweinet,
Mir träumte, du bliebest mir gut.
Ich wachte auf, und noch immer
Strömt meine Tränenflut.
CHÀNG TRAI YÊU CÔ GÁI
Chàng trai yêu cô gái
Cô lại đi yêu người
Còn người này lại gọi
Cô khác là vợ tôi.
Cô gái thường lấy người
Đầu tiên mà mình gặp
Rồi khổ đau, khóc lóc
Chàng cũng khổ không nguôi.
Câu chuyện này xưa cũ
Nhưng vẫn mới muôn đời
Chuyện xảy ra với ai
Tim vỡ thành hai nửa.
Ein Jüngling liebt ein Mädchen
Ein Jüngling liebt ein Mädchen,
Die hat einen andern erwählt;
Der andre liebt eine andre,
Und hat sich mit dieser vermählt.
Das Mädchen heiratet aus Ärger
Den ersten besten Mann,
Der ihr in den Weg gelaufen;
Der Jüngling ist übel dran.
Es ist eine alte Geschichte,
Doch bleibt sie immer neu;
Und wem sie just passieret,
Dem bricht das Herz entzwei.
HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH
Cô bé Hạnh phúc thì luôn đỏng đảnh
Không khi nào một chỗ chịu ngồi yên
Sửa mớ tóc trên trán bạn vội vàng
Khẽ hôn bạn rồi bỏ đi nhanh chóng.
Cô gái Bất hạnh, trái lại, khiêm tốn
Ôm hôn bạn bằng trái tim yêu thương
Và luôn miệng nói rằng không vội vàng
Ngồi bên giường đan áo len cho bạn.
Das Glück ist eine leichte Dirne
Das Glück ist eine leichte Dirne,
Und weilt nicht gern am selben Ort;
Sie streicht das Haar dir von der Stirne
Und küßt dich rasch und flattert fort.
Frau Unglück hat im Gegentheile
Dich liebefest an’s Herz gedrückt;
Sie sagt, sie habe keine Eile,
Setzt sich zu dir an’s Bett und strickt.
HOA HỒNG HOA HUỆ
Hoa hồng, hoa huệ, bồ câu, mặt trời
Tôi từng yêu nhưng chỉ trong giây lát
Giờ quên hết, chỉ còn lại một người
Đằm thắm, dịu dàng, dịu êm, tinh khiết
Em là niềm vui, em là hạnh phúc
Hoa hồng, hoa huệ, bồ câu, mặt trời.
Die Rose, die Lilie, die Taube, die Sonne
Die Rose, die Lilie, die Taube, die Sonne,
Die liebt’ ich einst alle in Liebeswonne.
Ich lieb’ sie nicht mehr, ich liebe alleine
Die Kleine, die Feine, die Reine, die Eine;
Sie selber, aller Liebe Bronne,
Ist Rose und Lilie und Taube und Sonne.
Rượu uống hết trơn, bữa ăn ngon miệng
Hai cô em đôi má đã ửng hồng
Vẻ bạo dạn, áo ngực thì trễ xuống
Cả hai người vì rượu đã lâng lâng.
Vai trắng ngần, bộ ngực đẹp vô cùng
Con tim tôi run lên vì sợ hãi
Cả hai cùng cười vang và sau đấy
Nhảy lên giường rồi chui vội vào chăn.
Tôi đang định đưa tay lên kéo rèm
Thì đã nghe vang khò khè tiếng ngáy
Tôi ngơ ngác giống như thằng ngốc vậy
Có vẻ như đấy không phải giường mình.
Die Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut
Die Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut,
Die Dämchen sind rosig erhitzet;
Sie lüften das Mieder mit Übermut,
Ich glaube, sie sind bespitzet.
Die Schulter wie weiß, die Brüstchen wie nett!
Mein Herz erbebet vor Schrecken.
Nun werfen sie lachend sich aufs Bett,
Und hüllen sich ein mit den Decken.
Sie ziehen nun gar die Gardinen vor,
Und schnarchen am End um die Wette.
Da steh ich im Zimmer ein einsamer Tor,
Betrachte verlegen das Bette.
TUỔI TRẺ ĐÃ KHÔNG CÒN
Tuổi trẻ đã không còn
Tôi giờ bạo dạn hơn
Bàn tay tôi can đảm
Ve vuốt những eo thon.
Có cô từng giật mình
Định nổi cơn tam bành
Trước những lời mật ngọt
Dần dà cũng xuôi êm.
Nhưng điều quan trọng hơn
Là giờ đây không còn
Vẻ hồn nhiên, dại dột
Ngơ ngác của cừu non.
Jugend, die mir täglich schwindet
Jugend, die mir täglich schwindet,
Wird durch raschen Muth ersetzt,
Und mein kühn’rer Arm umwindet
Noch viel schlankre Hüften jetzt.
That auch manche sehr erschrocken,
Hat sie doch sich bald gefügt;
Holder Zorn, verschämtes Stocken
Wird von Schmeichelen besiegt.
Doch, wenn ich den Sieg genieße,
Fehlt das Beste mir dabey.
Ist es die verschwundne, süße,
Blöde Jugendeseley?
NHÃ CA
Thân thể người phụ nữ
Quả là một bài thơ
Do Thượng Đế tạo ra
Từ ngày đầu sáng tạo.
Trong một giờ nào đấy
Ngài đã rất vui mừng
Từ vật liệu đầu tiên
Ngài bắt đầu làm chủ.
Cơ thể người phụ nữ
Quả là một bài ca
Mà lời ca tuyệt vời
Không gì hơn được nữa.
Ý tưởng của Thượng Đế
Chính là chiếc cổ trần
Chính là mái tóc xoăn
Đặt ở trên đầu nhỏ.
Núm vú như nụ hồng
Là bài thơ trào phúng
Đẹp ngoài sự tưởng tượng
Là lạch nhỏ cách ngăn.
Ngài tạo ra cặp đùi
Như làm bằng nhựa dẻo
Đằng sau chiếc lá vả
Là nơi chốn tuyệt vời.
Thơ Ngài không trìu tượng
Có da thịt, tay chân
Biết cười và biết hôn
Bằng bờ môi âu yếm.
Thơ ở trong mọi chỗ
Thơ ở từng bước đi
Trên trán của bài ca
Đẹp đến mức hoàn mỹ.
Con khen Ngài, Thượng Đế
Trước Ngài, xin cúi mình!
So với Nhà thơ Thiên
Con chỉ đồ cẩu thả.
Con muốn chìm – Lạy Chúa!
Trong tác phẩm của Ngài
Suốt cả đêm cả ngày
Con miệt mài nghiên cứu.
Suốt cả đêm cả ngày
Con không ngừng tìm hiểu
Đôi chân con gầy yếu
Vì sự nghiên cứu này.
Das Hohelied
Des Weibes Leib ist ein Gedicht,
Das Gott der Herr geschrieben
Ins große Stammbuch der Natur,
Als ihn der Geist getrieben.
Ja, günstig war die Stunde ihm,
Der Gott war hochbegeistert;
Er hat den spröden, rebellischen Stoff
Ganz künstlerisch bemeistert.
Fürwahr, der Leib des Weibes ist
Das Hohelied der Lieder;
Gar wunderbare Strophen sind
Die schlanken, weißen Glieder.
O welche göttliche Idee
Ist dieser Hals, der blanke,
Worauf sich wiegt der kleine Kopf,
Der lockige Hauptgedanke!
Der Brüstchen Rosenknospen sind
Epigrammatisch gefeilet;
Unsäglich entzückend ist die Zäsur,
Die streng den Busen teilet.
Den plastischen Schöpfer offenbart
Der Hüften Parallele;
Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt
Ist auch eine schöne Stelle.
Das ist kein abstraktes Begriffspoem!
Das Lied hat Fleisch und Rippen,
Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt
Mit schöngereimten Lippen.
Hier atmet wahre Poesie!
Anmut in jeder Wendung!
Und auf der Stirne trägt das Lied
Den Stempel der Vollendung.
Lobsingen will ich dir, o Herr,
Und dich im Staub anbeten!
Wir sind nur Stümper gegen dich,
Den himmlischen Poeten.
Versenken will ich mich, o Herr,
In deines Liedes Prächten;
Ich widme seinem Studium
Den Tag mitsamt den Nächten.
Ja, Tag und Nacht studier ich dran,
Will keine Zeit verlieren;
Die Beine werden mir so dünn -
Das kommt vom vielen Studieren.
MỘT GIẤC MƠ ĐÁNG SỢ
Một giấc mơ đáng sợ
Vừa sợ vừa buồn cười
Có vẻ từ ngày đó
Tôi không còn là tôi.
Đó là một khu vườn
Nơi mà tôi đi dạo
Những bông hoa nở bừng
Lòng tôi vui biết mấy.
Có chim hót trên cành
Những lời rất âu yếm
Ánh mặt trời vàng óng
Đang rót xuống vườn xanh.
Hoa cỏ tỏa mùi hương
Ngạt ngào trong cơn gió
Dường như tất, tất cả
Khoe vẻ đẹp của mình.
Giữa hoa cỏ màu xanh
Có một đài phun nước
Một cô gái xinh đẹp
Đang ngồi giặt áo quần.
Đôi má đỏ, môi hồng
Và mái tóc vàng óng
Đôi mắt tôi tìm kiếm
Nét vừa lạ vừa quen.
Nàng vừa giặt áo quần
Vừa cất lên tiếng hát:
“Chảy đi, ơi dòng nước
Giặt cho sạch cho nhanh”.
Thấy vậy, tôi đến gần
“Em ơi, cho tôi hỏi
Thì thầm thôi, có phải
Em giặt áo cho chồng?”
Nàng trả lời rất nhanh:
“Áo quan cho anh đấy!”
Nói xong lời như vậy
Nàng liền biến mất tăm.
Và tôi đến khu rừng
Tối tăm và hoang dã
Đầy cây cao bóng cả
Thấy ngạc nhiên vô cùng.
Tiếp sau sự ngạc nhiên
Nghe rõ ràng tiếng búa
Giữa khu rừng hoang dã
Tôi bước đi vội vàng.
Bỗng thấy giữa khu rừng
Có một cây sồi lớn
Một cô gái bên cạnh
Tay cầm búa lăm lăm.
Nàng vung búa không ngừng
Vừa chặt cây vừa hát:
“Búa của ta bằng sắt
Hãy đóng nhanh chiếc hòm”.
Tôi lại bước đến gần
“Em ơi, cho anh hỏi
Ai bắt em làm vậy
Sao lại đi đóng hòm?”
Nàng lại trả lời nhanh:
“Đóng hòm cho anh đấy!”
Và y hệt lúc nãy
Nàng lại biến mất tăm.
Xung quanh đều tối đen
Khắp nơi đều trống vắng
Chẳng biết điều gì đến
Tôi cảm thấy rùng mình.
Tôi tiếp tục lang thang
Thấy một dải màu trắng
Liền vội vàng bước đến
Và tôi lại thấy nàng.
Mặc áo quần trắng tinh
Trong tay cầm chiếc xẻng
Nàng, theo tôi cảm nhận
Vừa đẹp vừa kinh hoàng.
Còn người đẹp vội vàng
Vừa đào đất vừa hát
“Xẻng của ta rộng, sắc
Hãy đào huyệt cho nhanh”.
Tôi lại bước đến gần
“Em ơi, cho anh hỏi
Em dễ thương như vậy
Sao đào huyệt để chôn?”
Nàng trả lời vội vàng:
“Huyệt để chôn anh đấy!”
Sau những lời như vậy
Miệng huyệt đã mở toang.
Đưa mắt nhìn vào trong
Tôi rùng mình khủng khiếp
Bỗng tôi ngã xuống huyệt –
Và chợt tỉnh giấc nồng.
Ein Traum, gar seltsam schauerlich
Ein Traum, gar seltsam schauerlich,
Ergötzte und erschreckte mich.
Noch schwebt mir vor manch grausig Bild,
Und in dem Herzen wogt es wild.
Das war ein Garten, wunderschön,
Da wollt ich lustig mich ergehn;
Viel schöne Blumen sahn mich an,
Ich hatte meine Freude dran.
Es zwitscherten die Vögelein
Viel muntre Liebesmelodein;
Die Sonne rot, von Gold umstrahlt,
Die Blumen lustig bunt bemalt.
Viel Balsamduft aus Kräutern rinnt,
Die Lüfte wehen lieb und lind;
Uns alles schimmert, alles lacht,
Und zeigt mir freundlich seine Pracht.
Inmitten in dem Blumenland
Ein klarer Marmorbrunnen stand;
Da schaut ich eine schöne Maid,
Die emsig wusch ein weißes Kleid.
Die Wänglein süß, die Äuglein mild,
Ein blondgelocktes Heilgenbild;
Und wie ich schau, die Maid ich fand
So fremd und doch so wohlbekannt.
Die schöne Maid, die sputet sich,
Sie summt ein Lied gar wunderlich:
»Rinne, rinne, Wässerlein,
Wasche mir das Linnen rein.«
Ich ging und nahete mich ihr,
Und flüsterte: O sage mir,
Du wunderschöne, süße Maid,
Für wen ist dieses weiße Kleid?
Da sprach sie schnell: Sei bald bereit,
Ich wasche dir dein Totenkleid!
Und als sie dies gesprochen kaum,
Zerfloß das ganze Bild, wie Schaum. -
Und fortgezaubert stand ich bald
In einem düstern, wilden Wald.
Die Bäume ragten himmelan;
Ich stand erstaunt und sann und sann.
Und horch! welch dumpfer Widerhall!
Wie ferner Äxtenschläge Schall;
Ich eil durch Busch und Wildnis fort,
Und komm an einen freien Ort.
Inmitten in dem grünen Raum,
Da stand ein großer Eichenbaum;
Und sieh! mein Mägdlein wundersam
Haut mit dem Beil den Eichenstamm.
Und Schlag auf Schlag, und sonder Weil,
Summt sie ein Lied und schwingt das Beil:
»Eisen blink, Eisen blank,
Zimmre hurtig Eichenschrank.«
Ich ging und nahete mich ihr,
Und flüsterte: O sage mir,
Du wundersüßes Mägdelein,
Wem zimmerst du den Eichenschrein?
Da sprach sie schnell: Die Zeit ist karg,
Ich zimmre deinen Totensarg!
Und als sie dies gesprochen kaum,
Zerfloß das ganze Bild, wie Schaum. -
Es lag so bleich, es lag so weit
Ringsum nur kahle, kahle Heid;
Ich wußte nicht, wie mir geschah,
Und heimlich schaudernd stand ich da.
Und nun ich eben fürder schweif,
Gewahr ich einen weißen Streif;
Ich eilt drauf zu, und eilt und stand,
Und sieh! die schöne Maid ich fand.
Auf weiter Heid stand weiße Maid,
Grub tief die Erd mit Grabescheit.
Kaum wagt ich noch sie anzuschaun,
Sie war so schön und doch ein Graun.
Die schöne Maid, die sputet sich,
Sie summt ein Lied gar wunderlich:
»Spaten, Spaten, scharf und breit,
Schaufle Grube tief und weit.«
Ich ging und nahete mich ihr,
Und flüsterte: O sage mir,
Du wunderschöne, süße Maid,
Was diese Grube hier bedeut't?
Da sprach sie schnell: »Sei still, ich hab
Geschaufelt dir ein kühles Grab.«
Und als so sprach die schöne Maid,
Da öffnet sich die Grube weit;
Und als ich in die Grube schaut,
Ein kalter Schauer mich durchgraut;
Und in die dunkle Grabesnacht
Stürzt ich hinein - und bin erwacht.
BÊN KIA SÔNG RANH
Giữa đồng cỏ hoang sơ
Giữa hoa hồng thơm ngát
Láu lỉnh và khù khờ
Yêu nhau theo đủ cách
Trong nghệ thuật tình yêu
Bậc thầy là người Pháp.
Còn chúng ta hiểu nhau
Người Đức chỉ biết ghét
Chất chứa ở trong đầu
Hận thù như thuốc độc
Giá như mà đem rót
Thùng Hai-đơ-béc bé teo*.
________________
*Thùng ở Heidelberg – là một chiếc thùng cực lớn bằng gỗ sồi có dung tích 212.422 lít dùng để ủ rượu vang được đặt ngầm dưới một tòa lâu đài. Đây là một danh thắng nổi tiếng của thành phố Heidelberg.
Diesseits und jenseits des Rheins
Sanftes Rasen, wildes Kosen,
Tändeln mit den glühnden Rosen,
Holde Lüge, süßer Dunst,
Die Veredlung roher Brunst,
Kurz, der Liebe heitre Kunst -
Da seid Meister ihr, Franzosen!
Aber wir verstehn uns baß,
Wir Germanen, auf den Haß.
Aus Gemütes Tiefen quillt er,
Deutscher Haß! Doch riesig schwillt er,
Und mit seinem Gifte füllt er
Schier das Heidelberger Faß.
Xem thêm: