Lord Byron
VĨNH
BIỆT EM
Than
ôi! họ đã từng là bạn của nhau
Nhưng
ác nhân đầu độc lòng chung thủy
Dù
sự thật vẫn sống ở trên cao
Nhưng
tuổi thanh xuân phí hoài, vô nghĩa
Và
cuồng điên ngự trị ở trong đầu
Và
cuộc đời từ đây chia hai ngả.
Không
bao giờ họ còn gặp lại nhau
Để
con tim lại mừng vui, hớn hở
Biệt
ly này có ai muốn gì đâu
Như
vách đá bị chia làm hai nửa.
Biển
buồn bã giữa con sóng bạc đầu
Không
sấm chớp, oi nồng hay băng giá
Tình
đã chết ở trong lòng, tuy thế
Hai
người đã từng một thuở của nhau.
Coleridge. Christabel.
Coleridge. Christabel.
Vĩnh
biệt em! và nếu là mãi mãi
Thì
đến muôn đời vĩnh biệt em
Lòng
hận thù anh không còn giữ lại
Và
em nhé, hãy quên.
Có
lẽ nào trên ngực của anh
Nơi
mái đầu của em từng cúi xuống
Nơi
đã từng say sưa trong giấc mộng
Em
còn nhớ chăng giấc mộng của mình?
Và
với anh, có lẽ nào em nỡ
Khi
đã nhìn xuyên suốt trái tim anh
Rồi
sau đấy em dễ dàng chối bỏ
Trái
tim anh em nỡ coi thường.
Có
thể là thiên hạ sẽ khen em
Nhưng
là điều tai họa, em có biết
Rằng
khi nhận về lời khen cho mình
Em
mang bất hạnh đến cho người khác.
Ừ
thì anh lỗi lầm, anh vẫn biết
Anh
vẫn mong chuộc lại lỗi lầm
Nhưng
tại sao bàn tay, em nỡ giết
Bàn
tay từng âu yếm cùng anh?
Và
dù sao, em đừng tự dối mình
Ngọn
lửa tình đâu đã tàn phai hẳn
Dù
bây giờ đã ly biệt con tim
Tình
đau đớn trong tim này vẫn sống.
Tình
của em trong tim anh vẫn giữ
Đớn
đau này rỉ máu trái tim anh
Một
ý nghĩ vẫn làm anh đau khổ
Rằng
sẽ không còn gặp nữa chúng mình.
Em
có nghe tiếng nức nở của ai
Như
tiếng khóc lạc loài trên xác chết
Ta
vẫn sống, nhưng mỗi sáng hai người
Đều
goá bụa trên giường khi tỉnh giấc.
Và
khi em âu yếm cùng con gái
Dạy
con mình cất tiếng gọi "Cha ơi!"
Thì
với con của mình, em có nói:
Cha
của con vẫn sống ở trên đời?
Khi
bàn tay đứa con quàng âu yếm
Khi
hôn môi con em có biết rằng
Anh
vẫn mong và vẫn luôn cầu nguyện
Vẫn
nghĩ về em như thuở yêu anh.
Nếu
em thấy con gái mình rất giống
Với
kẻ mà xưa em nỡ phụ tình
Nếu
bỗng nhiên con tim em rung động
Nhịp
đập chân thành em hãy hướng về anh.
Lỗi
lầm anh, có thể là em biết
Vẻ
điên cuồng em chẳng biết được đâu
Niềm
hy vọng của anh còn tha thiết
Như
bên tai còn vọng mãi u sầu.
Và
tâm hồn rất kiêu hãnh của anh
Trước
tình em cúi xuống
Hồn
anh đuổi theo em
Từ
giã anh đi về nơi xa vắng.
Hết
thật rồi, tất cả lời trống rỗng
Càng
phí hoài hơn thế những lời anh
Nhưng
ý nghĩ không thể nào ngăn cản
Ý
nghĩ khát khao bay đến với tình.
Vĩnh
biệt em! giờ tình yêu đã hết
Mất
em rồi, tình yêu đã xa xôi
Không
bao giờ tim anh còn được chết
Bởi
từ đây con tim đã chết rồi.
Fare
Thee Well
"At
last! they had been friends in youth:
But
whispering tongues can poison truth;
And
constancy lives in realms above;
And
life is thorny; and youth is vain;
And
to be wroth with one we love,
Doth
work like madness in the brain;
But
never either found another
To
free the hollow heart from paining -
They
stood aloof, the scars remaining.
Like
cliffs which had been rent asunder;
A
dreary sea now flows between,
But
neither heat, nor frost, nor thunder,
Shall
wholly do away, I ween,
The
marks of that which once hath been."
Coleridge,
Christabel
Fare
thee well! and if for ever,
Still
for ever, fare thee well:
Even
though unforgiving, never
'Gainst
thee shall my heart rebel.
Would
that breast were bared before thee
Where
thy head so oft hath lain,
While
that placid sleep came o'er thee
Which
thou ne'er canst know again:
Would
that breast, by thee glanced over,
Every
inmost thought could show!
Then
thou wouldst at last discover
Twas
not well to spurn it so.
Though
the world for this commend thee -
Though
it smile upon the blow,
Even
its praise must offend thee,
Founded
on another's woe:
Though
my many faults defaced me,
Could
no other arm be found,
Than
the one which once embraced me,
To
inflict a cureless wound?
Yet,
oh yet, thyself deceive not;
Love
may sink by slow decay,
But
by sudden wrench, believe not
Hearts
can thus be torn away:
Still
thine own its life retaineth,
Still
must mine, though bleeding, beat;
And
the undying thought which paineth
Is
- that we no more may meet.
These
are words of deeper sorrow
Than
the wail above the dead;
Both
shall live, but every morrow
Wake
us from a widowed bed.
And
when thou wouldst solace gather,
When
our child's first accents flow,
Wilt
thou teach her to say "Father!"
Though
his care she must forego?
When
her little hands shall press thee,
When
her lip to thine is pressed,
Think
of him whose prayer shall bless thee,
Think
of him thy love had blessed!
Should
her lineaments resemble
Those
thou never more may'st see,
Then
thy heart will softly tremble
With
a pulse yet true to me.
All
my faults perchance thou knowest,
All
my madness none can know;
All
my hopes, where'er thou goest,
Wither,
yet with thee they go.
Every
feeling hath been shaken;
Pride,
which not a world could bow,
Bows
to thee - by thee forsaken,
Even
my soul forsakes me now:
But
'tis done - all words are idle -
Words
from me are vainer still;
But
the thoughts we cannot bridle
Force
their way without the will.
Fare
thee well! thus disunited,
Torn
from every nearer tie.
Seared
in heart, and lone, and blighted,
More
than this I scarce can die.
CÔ GÁI ATHENS
1
Cô gái Athens, trước lúc chia tay
Em trả lại con tim cho tôi nhé
Hay là con tim của tôi từ đó
Đã cùng em, ở lại đến muôn đời
Lời thề hẹn của tôi, em hãy nhớ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!*
2
Ngọn gió biển Aegea ve vuốt
Lên mái tóc, lên đôi má em tôi
Ngọn gió hôn lên đôi mắt rạng ngời
Ơi đôi mắt của em ngời vẻ đẹp
Xin hãy nhớ lời hẹn thề da diết:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
3
Tôi đã từng hôn lên đôi môi đó
Bằng cả tình yêu tuổi trẻ của tôi
Và những giọng của loài hoa thầm thĩ
Còn nói nhiều hơn tất cả những lời
Tôi thề hẹn với niềm vui, nỗi khổ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
4
Cô gái Athens, khi tôi đi rồi
Em hãy nhớ về tôi, khi vắng vẻ
Giờ tôi đến Istambol xa lạ
Nhưng Athens sống mãi giữa lòng này
Và con tim không bao giờ từ giã
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
*Câu này trong nguyên bản tiếng Anh viết bằng tiếng Hy Lạp, và đây là những lời chú thích của Byron: “Lời thổ lộ tình yêu bằng tiếng Hy Lạp. Nếu tôi dịch nó thì sẽ làm mất lòng những người đàn ông cho rằng đó là sự thiếu lòng tin vào khả năng tự dịch của họ, mà nếu không dịch thì sẽ làm phật ý những chị em phụ nữ. Tôi sợ sự hiểu lầm của phụ nữ, và tôi quyết định dịch, xin các học giả hãy độ lượng tha thứ. Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ (Zoë mou sas agapo) nghĩa là: “Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!”(My Life, I Love You!), câu này nghe rất dễ thương bằng tất cả các thứ tiếng.
Maid of Athens, ere we part
1
Maid of Athens, ere we part,
Give, oh give me back my heart!
Or, since that has left my breast,
Keep it now, and take the rest!
Hear my vow before I go,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
2
By those tresses unconfined,
Wooed by each Ægean wind;
By those lids whose jetty fringe
Kiss thy soft cheeks' blooming tinge
By those wild eyes like the roe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
3
By that lip I long to taste;
By that zone-encircled waist;
By all the token-flowers that tell
What words can never speak so well;
By love's alternate joy and woe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
4
Maid of Athens! I am gone:
Think of me, sweet! when alone.
Though I fly to Istambol,
Athens holds my heart and soul:
Can I cease to love thee? No!
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
CHẲNG CÒN NHỮNG ĐÊM XƯA
Thôi đêm này chẳng cùng em sánh bước
Như những đêm xưa từng bước chung đôi
Dù tình yêu vẫn dồn lên trong ngực
Và ánh trăng vẫn sáng ở trên trời.
Như lưỡi dao đã mòn vì bao vỏ
Tâm hồn đau vì đã lắm bồi hồi
Giờ con tim đang rất cần hơi thở
Và tình yêu đang muốn được nghỉ ngơi.
Dù đêm nay vẫn dịu hiền như trước
Đêm dễ thương, âu yếm của hai người
Nhưng anh và em chẳng còn sánh bước
Như những đêm xưa dưới ánh trăng soi.
So, we'll go no more a roving
So, we'll go no more a roving
So late into the night,
Though the heart be still as loving,
And the moon be still as bright.
For the sword outwears its sheath,
And the soul wears out the breast,
And the heart must pause to breathe,
And love itself have rest.
Though the night was made for loving,
And the day returns too soon,
Yet we'll go no more a roving
By the light of the moon.
GỬI D
Khi anh ôm em vào trong lồng ngực
Hạnh phúc tình yêu tràn ngập lòng anh
Tưởng chỉ cái chết làm cho ta ly biệt
Nhưng thù hận đã làm xa cách chúng mình.
Nhưng hồn anh đã hòa quyện hồn em
Thì dù chúng mình sống trong ly biệt
Trong tim này vẫn hiện bóng hình em
Cho đến một ngày tim chưa ngừng đập.
Nếu sau này xác chết được hồi sinh
Cuộc đời mới nảy sinh từ tro bụi
Anh vẫn cúi đầu trên ngực em như vậy
Không có em, anh chẳng có thiên đường.
To D
1
In thee, I fondly hop'd to clasp
A friend, whom death alone could sever;
Till envy, with malignant grasp,
Detach'd thee from my breast for ever.
2
True, she has forc'd thee from my breast,
Yet, in my heart thou keep'st thy seat;[3]
There, there, thine image still must rest,
Until that heart shall cease to beat.
3
And, when the grave restores her dead,
When life again to dust is given,
On thy dear breast I'll lay my head—
Without thee! where would be my Heaven?
THƠ ĐỀ TRÊN CHIẾC CỐC LÀM TỪ HỘP SỌ
Chớ nghĩ suy về linh hồn của ta
Ta đây đơn giản chỉ là hộp sọ
Khác hẳn với những đầu đang suy nghĩ
Không bao giờ có dòng chảy ngu si.
Cũng như người, ta từng sống từng yêu
Rồi ta chết. Rượu thơm người hãy rót
Người không hề làm cho ta thấy ghét
Môi của giun còn kinh tởm hơn kìa.
Thà được làm chiếc chén chứa rượu nho
Còn hơn phải làm mồi cho giun đất
Thà phụng sự thánh thần bằng chiếc cốc
Còn hơn làm thực phẩm cúng loài sâu.
Nơi một thuở đã từng tâm trí sáng
Ánh sáng kia cứ ở với người trần
Còn ở nơi đầu óc đã không còn
Hãy thay thế bằng rượu vang cao thượng.
Cứ uống đi, rồi một ngày sẽ đến
Người ta đem hộp sọ từ nấm mồ
Làm chiếc cốc và người sẽ say sưa
Và vui vẻ với ai còn đang sống.
Tại sao không – bởi đời này quá ngắn
Khi chết đi thì phỏng có ích gì
Đem hộp sọ để rót đầy rượu nho
Là cơ hội để trở thành hữu dụng.
Lines Inscribed Upon A Cup Formed From A Skull
Start not—nor deem my spirit fled:
In me behold the only skull
From which, unlike a living head,
Whatever flows is never dull.
I lived, I loved, I quaffed like thee;
I died: let earth my bones resign:
Fill up—thou canst not injure me;
The worm hath fouler lips than thine.
Better to hold the sparkling grape
Than nurse the earthworm's slimy brood,
And circle in the goblet's shape
The drink of gods than reptile's food.
Where once my wit, perchance, hath shone,
In aid of others' let me shine;
And when, alas! our brains are gone,
What nobler substitute than wine?
Quaff while thou canst; another race,
When thou and thine like me are sped,
May rescue thee from earth's embrace,
And rhyme and revel with the dead.
Why not—since through life's little day
Our heads such sad effects produce?
Redeemed from worms and wasting clay,
This chance is theirs to be of use.
SINH NHẬT BA MƯƠI BA TUỔI
Con đường đời lắm bụi bặm, ngu si
Rồi cuối cùng là ba mươi ba tuổi.
Đem tổng kết xem điều gì còn lại?
Ba mươi ba năm – và chẳng có gì.
On My Thirty-third Birthday, January 22, 1821
Through life's dull road, so dim and dirty,
I have dragg'd to three-and-thirty.
What have these years left to me?
Nothing--except thirty-three.
THƠ ĐỀ TẶNG TRONG ALBUM
Giống như phiến đá trên mồ lạnh
Gợi người du khách phải dừng chân
Thì những dòng này – khi đọc chúng
Khiến đôi mắt đẹp sẽ trầm ngâm.
Và cái tên này rồi em đọc
Nhắc ai sau những tháng năm dài
Hãy nghĩ: người ta dù đã chết
Tim người còn chôn ở nơi đây.
Lines Written in an Album, at Malta
As o'er the cold sepulchral stone
Some name arrests the passer-by;
Thus, when thou view'st this page alone,
May mine attract thy pensive eye!
And when by thee that name is read,
Perchance in some succeeding year,
Reflect on me as on the dead,
And think my heart is buried here.
VỀ NGÀY CƯỚI CỦA TÔI
Năm mới hạnh phúc! thích gì cứ chúc
Nhưng chỉ xin quí vị nhớ một điều:
Chúc năm mới cho tôi thì cứ việc
Nhưng đừng chúc về ngày cưới của tôi.
On My Wedding-Day
Here's a happy new year! but with reason
I beg you'll permit me to say
Wish me many returns of the season,
But as few as you please of the dy.
NHỚ VỀ EM
Nhớ về em, nhớ về
Sông Lethe cuồn cuộn
Xấu hổ và hối hận
Đeo bám như giấc mơ.
Nhớ em, chẳng nghi ngờ
Chồng của em cũng vẫn
Không thể nào quên lãng
Khổ anh và hắn ta.
____________
* Đây là bài thơ về Caroline Lamb – một tình yêu đã hành hạ Byron không ít. Ngày hai người yêu nhau Byron 24 tuổi còn Caroline Lamb là một quí bà 27 tuổi, đã có chồng và con trai. Sau một thời gian Byron quyết định chia tay nhưng Caroline Lamb không chịu và vẫn tìm kiếm Byron khắp mọi nẻo. Một hôm Caroline Lamb tìm đến nhà Byron nhưng Byron không có nhà, nàng viết vào trang bìa của một cuốn sách trên bàn dòng chữ Remember Me! Khi trở về nhìn thấy dòng chữ này Byron đã viết ra bài thơ này.
**Lethe – dòng sông Quên lãng ở dưới Địa ngục.
Remember Thee!
Remember thee! Remember thee!
Till Lethe quench life's burning stream
Remorse and shame shall cling to thee,
And haunt thee like a feverish dream!
Remember thee! Aye, doubt it not.
Thy husband too shall think of thee:
By neither shalt thou be forgot,
Thou false to him, thou fiend to me!
HỒI TƯỞNG
Thôi hết rồi! Tôi nhìn thấy trong mơ
Đã tắt ánh sáng của niềm hy vọng
Những ngày hạnh phúc của tôi quá ngắn
Tôi rùng mình trước gió lạnh mùa thu
Bình minh cuộc đời trở nên u ám
Tình yêu, Hy vọng cũng thế thôi mà!
Tôi chỉ biết đắm mình trong hồi tưởng!
Remembrance
'Tis done! - I saw it in my dreams;
No more with Hope the future beams;
My days of happiness are few:
Chill'd by misfortune's wintry blast,
My dawn of life is overcast;
Love Hope, and Joy, alike adieu!
Would I could add Remembrance too!
NÀNG BƯỚC ĐI LỘNG LẪY NHƯ TRỜI ĐÊM
Nàng bước đi lộng lẫy như trời đêm
Có muôn vàn những vì sao tỏa sáng
Và đôi mắt của nàng trong sâu thẳm
Ánh sáng bừng hòa quyện với bóng đêm
Rồi biến thành thứ ánh sáng dịu dàng
Mà ban ngày không thể nào biết đến.
Dù bớt một tia, thêm vào một bóng
Cũng sẽ làm hư nét đẹp của em
Trên mái tóc em óng mượt đen huyền
Hay ánh sáng trên đầu em tỏa rạng
Và những ý nghĩ dịu êm trong sáng
Hiện rõ ràng trên gương mặt của em.
Trên bờ mi, trên đôi má em hồng
Vẫn lấp lánh một nụ cười chiến thắng
Dường như nói lên một vẻ yên bình
Dường như nói lên tâm hồn thánh thiện
Và nếu như được tình yêu ban tặng
Thì đấy là quà tặng của con tim.
Hebrew Melodies 1. She Walks In Beauty
She walks in beauty, like the night
Of cloudless climes and starry skies;
And all that’s best of dark and bright
Meet in her aspect and her eyes;
Thus mellowed to that tender light
Which heaven to gaudy day denies.
One shade the more, one ray the less,
Had half impaired the nameless grace
Which waves in every raven tress,
Or softly lightens o’er her face;
Where thoughts serenely sweet express,
How pure, how dear their dwelling-place.
And on that cheek, and o’er that brow,
So soft, so calm, yet eloquent,
The smiles that win, the tints that glow,
But tell of days in goodness spent,
A mind at peace with all below,
A heart whose love is innocent!
MẶT TRỜI CỦA NGƯỜI KHÔNG NGỦ
Mặt trời không ngủ! vì tinh tú buồn!
Thứ ánh sáng buồn từ chốn xa xăm.
Và tăm tối còn hơn đêm tối nữa
Tựa niềm vui mỗi khi nhớ về em.
Ngày xa xôi dù giờ vẫn ánh lên
Nhưng ánh sáng cho hồn không sưởi ấm
Và dù nỗi buồn trong đêm tỏa sáng
Gần nhưng xa, sáng – nhưng thật lạnh lùng!
Hebrew Melodies 19. Sun of the Sleepless!
Sun of the sleepless! melancholy star!
Whose tearful beam glows tremulously far!
That show's the darkness thou canst not dispel,
How like art thou to joy remember'd well!
So gleams the past, the light of other days,
Which shines, but warms not with its powerless rays;
A nightbeam Sorrow watcheth to behold,
Distinct, but distant - clear - but, oh how cold!
CON GÁI CỦA GIÉP-THÊ*
Nếu Tổ quốc và Chúa Trời cần đến
Cái chết của con, con sẽ vui lòng
Con xin cha cứ thực hiện lời nguyền
Con sẽ chết cho ngày mai chiến thắng.
Không còn thấy núi đồi trong sương nắng
Dù giọng của con đầy vẻ tang thương
Con sẽ không đau, không giận, không buồn
Bởi con chết dưới bàn tay yêu kính.
Máu của con sạch như lời cầu nguyện
Như nghĩ suy của giây phút sau cùng
Xin cha giang rộng vòng tay với con
Để cái chết con dễ dàng tiếp nhận.
Dù các cô gái khóc than đau đớn
Con xin cha không nhụt chí bao giờ
Con đã góp phần mình cùng với cha
Để quê hương sẽ vui ngày chiến thắng.
Cho đến khi dòng máu này đã cạn
Và giọng của con khi đã lặng ngừng
Con xin cha, cha hãy nhớ về con
Với cái chết nở nụ cười tiếp nhận.
________________
*Đây là bài thơ trong loạt bài “Giai điệu Do Thái” (Hebrew Melodies) viết theo nội dung một tích của Kinh Thánh Cựu Ước. Giép-thê (Jephthah), một phán quan Israel, đã thề với Chúa Trời rằng nếu Ngài cho ông chiến thắng người Ammoniti thì ông sẽ hiến tế cho Ngài sinh linh đầu tiên bước ra khỏi nhà ông khi ông quay về. Kết quả là đứa con gái duy nhất ra đón ông đã phải thực hiện lời thề đó. “Ông Giép-thê khấn hứa với Đức Chúa rằng: “Nếu Ngài trao con cái Am-mon vào tay con, thì khi con đã thắng con cái Am-mon mà trở về bình an, hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về Đức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu” (Thủ lãnh, XI, 30-31).
Hebrew Melodies 7. Jephthah’s Daughter
SINCE our country, our God—oh, my sire!
Demand that thy daughter expire;
Since thy triumph was bought by thy vow—
Strike the bosom that’s bared for thee now!
And the voice of my mourning is o’er,
And the mountains behold me no more.
If the hand that I love lay me low
There cannot be pain in the blow!
And of this, O my father! be sure—
That the blood of thy child is as pure
As the blessing I beg ere it flow,
And the last thought that soothes me below.
Though the virgins of Salem lament,
Be the judge and the hero unbent!
I have won the great battle for thee,
And my father and country are free.
When this blood of thy giving hath gush’d,
When the voice that thou lovest is hush’d,
Let my memory still be thy pride;
And forget not I smiled as I died.
MỘT HỒN MA TRƯỚC MẶT TÔI
Một hồn ma trước mặt tôi đi ngang
Vẻ bất tử mở ra cho tôi thấy
Đôi mắt tôi như trong giấc ngủ vậy
Ma đứng đấy – vô hình – nhưng thiêng liêng
Tóc tôi ướt đẫm, thân thể run lên
Và tôi nghe những lời hồn ma nói:
Có phải ngươi kiêu hãnh trước Chúa Trời?
Thiên thần trắng trong còn ngươi tội lỗi
Từ cát bụi ngươi lại về cát bụi
Như con bướm sâu chỉ sống một ngày
Trí tuệ của ngươi yếu đuối mà thôi
Ánh sáng Trí tuệ ngươi không đạt tới”.
Hebrew Melodies 28. A Spirit Passed Before me
A spirit passed before me: I beheld
The face of immortality unveiled -
Deep sleep came down on every eye save mine -
And there it stood, -all formless -but divine:
Along my bones the creeping flesh did quake;
And as my damp hair stiffened, thus it spake:
"Is man more just than God? Is man more pure
Than He who deems even Seraphs insecure?
Creatures of clay -vain dwellers in the dust!
The moth survives you, and are ye more just?
Things of a day! you wither ere the night,
Heedless and blind to Wisdom's wasted light!"
MÔ PHỎNG THƠ CATULLUS – GỬI ELLEN
Muốn hôn đôi mắt bừng như lửa
Dìm nỗi đam mê cả triệu lần
Để trên bờ môi niềm hoan hỉ
Bằng trăm năm trong một nụ hôn.
Tâm hồn của anh đang khao khát
Chỉ muốn ôm em để hôn em
Chẳng có điều gì ngăn cản được
Anh chỉ hôn em, và chỉ hôn.
Cứ để nụ hôn không đếm xuể
Như lúa vô vàn giữa đồng kia.
Mình chia tay ư? – thật nhảm nhí
Anh sẽ thôi hôn? – không bao giờ!
Imitated From Catullus. To Ellen
Oh! might I kiss those eyes of fire,
A million scarce would quench desire:
Still would I steep my lips in bliss,
And dwell an age on every kiss;
Nor then my soul should sated be,
Still would I kiss and cling to thee:
Nought should my kiss from thine dissever;
Still would we kiss, and kiss for ever,
E'en though the numbers did exceed
The yellow harvest's countless seed.
To part would be a vain endeavor:
Could I desist? -- ah! never -- never!
MÔ PHỎNG THƠ TIBULLUS
Cerinthus nghiệt ngã thay! Anh đây sắp chết
Có phải em đang vui vì bệnh hoạn của anh?
Than ôi! Anh vẫn muốn vượt qua bệnh tật
Để lại được sống với tình và để sống vì em
Nhưng anh cũng sẽ không khóc vì số kiếp
Chỉ cái chết cứu anh khỏi thù hận của em.
Imitation Of Tibullus
Cruel Cerinthus! does the fell disease
Which racks my breast your fickle bosom please?
Alas! I wish'd but to o'ercome the pain,
That I might live for love and you again;
But now I scarcely shall bewail my fate:
By death alone I can avoid your hate.
THƠ MỘ CHÍ CỦA TÔI
Tuổi trẻ, Thiên nhiên và Chúa trời quyền lực
Muốn để cho tôi cứ thắp sáng ngọn đèn
Nhưng bác sĩ Romanelli vẫn cứ kiên gan
Chiến thắng cả ba, và ngọn đèn tôi tắt.
My Epitaph
Youth, Nature, and relenting Jove,
To keep my Lamp in strongly strove;
But Romanelli was so stout,
He beat all three, and blew it out.
Một số nhà thơ Anh khác:
Percy Bysshe Shelley
William Butler Yeats
Rudyard Kipling
Robert Burns
Thomas Moore
William Shakespeare
CÔ GÁI ATHENS
1
Cô gái Athens, trước lúc chia tay
Em trả lại con tim cho tôi nhé
Hay là con tim của tôi từ đó
Đã cùng em, ở lại đến muôn đời
Lời thề hẹn của tôi, em hãy nhớ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!*
2
Ngọn gió biển Aegea ve vuốt
Lên mái tóc, lên đôi má em tôi
Ngọn gió hôn lên đôi mắt rạng ngời
Ơi đôi mắt của em ngời vẻ đẹp
Xin hãy nhớ lời hẹn thề da diết:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
3
Tôi đã từng hôn lên đôi môi đó
Bằng cả tình yêu tuổi trẻ của tôi
Và những giọng của loài hoa thầm thĩ
Còn nói nhiều hơn tất cả những lời
Tôi thề hẹn với niềm vui, nỗi khổ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
4
Cô gái Athens, khi tôi đi rồi
Em hãy nhớ về tôi, khi vắng vẻ
Giờ tôi đến Istambol xa lạ
Nhưng Athens sống mãi giữa lòng này
Và con tim không bao giờ từ giã
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
*Câu này trong nguyên bản tiếng Anh viết bằng tiếng Hy Lạp, và đây là những lời chú thích của Byron: “Lời thổ lộ tình yêu bằng tiếng Hy Lạp. Nếu tôi dịch nó thì sẽ làm mất lòng những người đàn ông cho rằng đó là sự thiếu lòng tin vào khả năng tự dịch của họ, mà nếu không dịch thì sẽ làm phật ý những chị em phụ nữ. Tôi sợ sự hiểu lầm của phụ nữ, và tôi quyết định dịch, xin các học giả hãy độ lượng tha thứ. Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ (Zoë mou sas agapo) nghĩa là: “Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!”(My Life, I Love You!), câu này nghe rất dễ thương bằng tất cả các thứ tiếng.
Maid of Athens, ere we part
1
Maid of Athens, ere we part,
Give, oh give me back my heart!
Or, since that has left my breast,
Keep it now, and take the rest!
Hear my vow before I go,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
2
By those tresses unconfined,
Wooed by each Ægean wind;
By those lids whose jetty fringe
Kiss thy soft cheeks' blooming tinge
By those wild eyes like the roe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
3
By that lip I long to taste;
By that zone-encircled waist;
By all the token-flowers that tell
What words can never speak so well;
By love's alternate joy and woe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
4
Maid of Athens! I am gone:
Think of me, sweet! when alone.
Though I fly to Istambol,
Athens holds my heart and soul:
Can I cease to love thee? No!
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
CHẲNG CÒN NHỮNG ĐÊM XƯA
Thôi đêm này chẳng cùng em sánh bước
Như những đêm xưa từng bước chung đôi
Dù tình yêu vẫn dồn lên trong ngực
Và ánh trăng vẫn sáng ở trên trời.
Như lưỡi dao đã mòn vì bao vỏ
Tâm hồn đau vì đã lắm bồi hồi
Giờ con tim đang rất cần hơi thở
Và tình yêu đang muốn được nghỉ ngơi.
Dù đêm nay vẫn dịu hiền như trước
Đêm dễ thương, âu yếm của hai người
Nhưng anh và em chẳng còn sánh bước
Như những đêm xưa dưới ánh trăng soi.
So, we'll go no more a roving
So, we'll go no more a roving
So late into the night,
Though the heart be still as loving,
And the moon be still as bright.
For the sword outwears its sheath,
And the soul wears out the breast,
And the heart must pause to breathe,
And love itself have rest.
Though the night was made for loving,
And the day returns too soon,
Yet we'll go no more a roving
By the light of the moon.
GỬI D
Khi anh ôm em vào trong lồng ngực
Hạnh phúc tình yêu tràn ngập lòng anh
Tưởng chỉ cái chết làm cho ta ly biệt
Nhưng thù hận đã làm xa cách chúng mình.
Nhưng hồn anh đã hòa quyện hồn em
Thì dù chúng mình sống trong ly biệt
Trong tim này vẫn hiện bóng hình em
Cho đến một ngày tim chưa ngừng đập.
Nếu sau này xác chết được hồi sinh
Cuộc đời mới nảy sinh từ tro bụi
Anh vẫn cúi đầu trên ngực em như vậy
Không có em, anh chẳng có thiên đường.
To D
1
In thee, I fondly hop'd to clasp
A friend, whom death alone could sever;
Till envy, with malignant grasp,
Detach'd thee from my breast for ever.
2
True, she has forc'd thee from my breast,
Yet, in my heart thou keep'st thy seat;[3]
There, there, thine image still must rest,
Until that heart shall cease to beat.
3
And, when the grave restores her dead,
When life again to dust is given,
On thy dear breast I'll lay my head—
Without thee! where would be my Heaven?
THƠ ĐỀ TRÊN CHIẾC CỐC LÀM TỪ HỘP SỌ
Chớ nghĩ suy về linh hồn của ta
Ta đây đơn giản chỉ là hộp sọ
Khác hẳn với những đầu đang suy nghĩ
Không bao giờ có dòng chảy ngu si.
Cũng như người, ta từng sống từng yêu
Rồi ta chết. Rượu thơm người hãy rót
Người không hề làm cho ta thấy ghét
Môi của giun còn kinh tởm hơn kìa.
Thà được làm chiếc chén chứa rượu nho
Còn hơn phải làm mồi cho giun đất
Thà phụng sự thánh thần bằng chiếc cốc
Còn hơn làm thực phẩm cúng loài sâu.
Nơi một thuở đã từng tâm trí sáng
Ánh sáng kia cứ ở với người trần
Còn ở nơi đầu óc đã không còn
Hãy thay thế bằng rượu vang cao thượng.
Cứ uống đi, rồi một ngày sẽ đến
Người ta đem hộp sọ từ nấm mồ
Làm chiếc cốc và người sẽ say sưa
Và vui vẻ với ai còn đang sống.
Tại sao không – bởi đời này quá ngắn
Khi chết đi thì phỏng có ích gì
Đem hộp sọ để rót đầy rượu nho
Là cơ hội để trở thành hữu dụng.
Lines Inscribed Upon A Cup Formed From A Skull
Start not—nor deem my spirit fled:
In me behold the only skull
From which, unlike a living head,
Whatever flows is never dull.
I lived, I loved, I quaffed like thee;
I died: let earth my bones resign:
Fill up—thou canst not injure me;
The worm hath fouler lips than thine.
Better to hold the sparkling grape
Than nurse the earthworm's slimy brood,
And circle in the goblet's shape
The drink of gods than reptile's food.
Where once my wit, perchance, hath shone,
In aid of others' let me shine;
And when, alas! our brains are gone,
What nobler substitute than wine?
Quaff while thou canst; another race,
When thou and thine like me are sped,
May rescue thee from earth's embrace,
And rhyme and revel with the dead.
Why not—since through life's little day
Our heads such sad effects produce?
Redeemed from worms and wasting clay,
This chance is theirs to be of use.
SINH NHẬT BA MƯƠI BA TUỔI
Con đường đời lắm bụi bặm, ngu si
Rồi cuối cùng là ba mươi ba tuổi.
Đem tổng kết xem điều gì còn lại?
Ba mươi ba năm – và chẳng có gì.
On My Thirty-third Birthday, January 22, 1821
Through life's dull road, so dim and dirty,
I have dragg'd to three-and-thirty.
What have these years left to me?
Nothing--except thirty-three.
THƠ ĐỀ TẶNG TRONG ALBUM
Giống như phiến đá trên mồ lạnh
Gợi người du khách phải dừng chân
Thì những dòng này – khi đọc chúng
Khiến đôi mắt đẹp sẽ trầm ngâm.
Và cái tên này rồi em đọc
Nhắc ai sau những tháng năm dài
Hãy nghĩ: người ta dù đã chết
Tim người còn chôn ở nơi đây.
Lines Written in an Album, at Malta
As o'er the cold sepulchral stone
Some name arrests the passer-by;
Thus, when thou view'st this page alone,
May mine attract thy pensive eye!
And when by thee that name is read,
Perchance in some succeeding year,
Reflect on me as on the dead,
And think my heart is buried here.
VỀ NGÀY CƯỚI CỦA TÔI
Năm mới hạnh phúc! thích gì cứ chúc
Nhưng chỉ xin quí vị nhớ một điều:
Chúc năm mới cho tôi thì cứ việc
Nhưng đừng chúc về ngày cưới của tôi.
On My Wedding-Day
Here's a happy new year! but with reason
I beg you'll permit me to say
Wish me many returns of the season,
But as few as you please of the dy.
NHỚ VỀ EM
Nhớ về em, nhớ về
Sông Lethe cuồn cuộn
Xấu hổ và hối hận
Đeo bám như giấc mơ.
Nhớ em, chẳng nghi ngờ
Chồng của em cũng vẫn
Không thể nào quên lãng
Khổ anh và hắn ta.
____________
* Đây là bài thơ về Caroline Lamb – một tình yêu đã hành hạ Byron không ít. Ngày hai người yêu nhau Byron 24 tuổi còn Caroline Lamb là một quí bà 27 tuổi, đã có chồng và con trai. Sau một thời gian Byron quyết định chia tay nhưng Caroline Lamb không chịu và vẫn tìm kiếm Byron khắp mọi nẻo. Một hôm Caroline Lamb tìm đến nhà Byron nhưng Byron không có nhà, nàng viết vào trang bìa của một cuốn sách trên bàn dòng chữ Remember Me! Khi trở về nhìn thấy dòng chữ này Byron đã viết ra bài thơ này.
**Lethe – dòng sông Quên lãng ở dưới Địa ngục.
Remember Thee!
Remember thee! Remember thee!
Till Lethe quench life's burning stream
Remorse and shame shall cling to thee,
And haunt thee like a feverish dream!
Remember thee! Aye, doubt it not.
Thy husband too shall think of thee:
By neither shalt thou be forgot,
Thou false to him, thou fiend to me!
HỒI TƯỞNG
Thôi hết rồi! Tôi nhìn thấy trong mơ
Đã tắt ánh sáng của niềm hy vọng
Những ngày hạnh phúc của tôi quá ngắn
Tôi rùng mình trước gió lạnh mùa thu
Bình minh cuộc đời trở nên u ám
Tình yêu, Hy vọng cũng thế thôi mà!
Tôi chỉ biết đắm mình trong hồi tưởng!
Remembrance
'Tis done! - I saw it in my dreams;
No more with Hope the future beams;
My days of happiness are few:
Chill'd by misfortune's wintry blast,
My dawn of life is overcast;
Love Hope, and Joy, alike adieu!
Would I could add Remembrance too!
NÀNG BƯỚC ĐI LỘNG LẪY NHƯ TRỜI ĐÊM
Nàng bước đi lộng lẫy như trời đêm
Có muôn vàn những vì sao tỏa sáng
Và đôi mắt của nàng trong sâu thẳm
Ánh sáng bừng hòa quyện với bóng đêm
Rồi biến thành thứ ánh sáng dịu dàng
Mà ban ngày không thể nào biết đến.
Dù bớt một tia, thêm vào một bóng
Cũng sẽ làm hư nét đẹp của em
Trên mái tóc em óng mượt đen huyền
Hay ánh sáng trên đầu em tỏa rạng
Và những ý nghĩ dịu êm trong sáng
Hiện rõ ràng trên gương mặt của em.
Trên bờ mi, trên đôi má em hồng
Vẫn lấp lánh một nụ cười chiến thắng
Dường như nói lên một vẻ yên bình
Dường như nói lên tâm hồn thánh thiện
Và nếu như được tình yêu ban tặng
Thì đấy là quà tặng của con tim.
Hebrew Melodies 1. She Walks In Beauty
She walks in beauty, like the night
Of cloudless climes and starry skies;
And all that’s best of dark and bright
Meet in her aspect and her eyes;
Thus mellowed to that tender light
Which heaven to gaudy day denies.
One shade the more, one ray the less,
Had half impaired the nameless grace
Which waves in every raven tress,
Or softly lightens o’er her face;
Where thoughts serenely sweet express,
How pure, how dear their dwelling-place.
And on that cheek, and o’er that brow,
So soft, so calm, yet eloquent,
The smiles that win, the tints that glow,
But tell of days in goodness spent,
A mind at peace with all below,
A heart whose love is innocent!
MẶT TRỜI CỦA NGƯỜI KHÔNG NGỦ
Mặt trời không ngủ! vì tinh tú buồn!
Thứ ánh sáng buồn từ chốn xa xăm.
Và tăm tối còn hơn đêm tối nữa
Tựa niềm vui mỗi khi nhớ về em.
Ngày xa xôi dù giờ vẫn ánh lên
Nhưng ánh sáng cho hồn không sưởi ấm
Và dù nỗi buồn trong đêm tỏa sáng
Gần nhưng xa, sáng – nhưng thật lạnh lùng!
Hebrew Melodies 19. Sun of the Sleepless!
Sun of the sleepless! melancholy star!
Whose tearful beam glows tremulously far!
That show's the darkness thou canst not dispel,
How like art thou to joy remember'd well!
So gleams the past, the light of other days,
Which shines, but warms not with its powerless rays;
A nightbeam Sorrow watcheth to behold,
Distinct, but distant - clear - but, oh how cold!
CON GÁI CỦA GIÉP-THÊ*
Nếu Tổ quốc và Chúa Trời cần đến
Cái chết của con, con sẽ vui lòng
Con xin cha cứ thực hiện lời nguyền
Con sẽ chết cho ngày mai chiến thắng.
Không còn thấy núi đồi trong sương nắng
Dù giọng của con đầy vẻ tang thương
Con sẽ không đau, không giận, không buồn
Bởi con chết dưới bàn tay yêu kính.
Máu của con sạch như lời cầu nguyện
Như nghĩ suy của giây phút sau cùng
Xin cha giang rộng vòng tay với con
Để cái chết con dễ dàng tiếp nhận.
Dù các cô gái khóc than đau đớn
Con xin cha không nhụt chí bao giờ
Con đã góp phần mình cùng với cha
Để quê hương sẽ vui ngày chiến thắng.
Cho đến khi dòng máu này đã cạn
Và giọng của con khi đã lặng ngừng
Con xin cha, cha hãy nhớ về con
Với cái chết nở nụ cười tiếp nhận.
________________
*Đây là bài thơ trong loạt bài “Giai điệu Do Thái” (Hebrew Melodies) viết theo nội dung một tích của Kinh Thánh Cựu Ước. Giép-thê (Jephthah), một phán quan Israel, đã thề với Chúa Trời rằng nếu Ngài cho ông chiến thắng người Ammoniti thì ông sẽ hiến tế cho Ngài sinh linh đầu tiên bước ra khỏi nhà ông khi ông quay về. Kết quả là đứa con gái duy nhất ra đón ông đã phải thực hiện lời thề đó. “Ông Giép-thê khấn hứa với Đức Chúa rằng: “Nếu Ngài trao con cái Am-mon vào tay con, thì khi con đã thắng con cái Am-mon mà trở về bình an, hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về Đức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu” (Thủ lãnh, XI, 30-31).
Hebrew Melodies 7. Jephthah’s Daughter
SINCE our country, our God—oh, my sire!
Demand that thy daughter expire;
Since thy triumph was bought by thy vow—
Strike the bosom that’s bared for thee now!
And the voice of my mourning is o’er,
And the mountains behold me no more.
If the hand that I love lay me low
There cannot be pain in the blow!
And of this, O my father! be sure—
That the blood of thy child is as pure
As the blessing I beg ere it flow,
And the last thought that soothes me below.
Though the virgins of Salem lament,
Be the judge and the hero unbent!
I have won the great battle for thee,
And my father and country are free.
When this blood of thy giving hath gush’d,
When the voice that thou lovest is hush’d,
Let my memory still be thy pride;
And forget not I smiled as I died.
MỘT HỒN MA TRƯỚC MẶT TÔI
Một hồn ma trước mặt tôi đi ngang
Vẻ bất tử mở ra cho tôi thấy
Đôi mắt tôi như trong giấc ngủ vậy
Ma đứng đấy – vô hình – nhưng thiêng liêng
Tóc tôi ướt đẫm, thân thể run lên
Và tôi nghe những lời hồn ma nói:
Có phải ngươi kiêu hãnh trước Chúa Trời?
Thiên thần trắng trong còn ngươi tội lỗi
Từ cát bụi ngươi lại về cát bụi
Như con bướm sâu chỉ sống một ngày
Trí tuệ của ngươi yếu đuối mà thôi
Ánh sáng Trí tuệ ngươi không đạt tới”.
Hebrew Melodies 28. A Spirit Passed Before me
A spirit passed before me: I beheld
The face of immortality unveiled -
Deep sleep came down on every eye save mine -
And there it stood, -all formless -but divine:
Along my bones the creeping flesh did quake;
And as my damp hair stiffened, thus it spake:
"Is man more just than God? Is man more pure
Than He who deems even Seraphs insecure?
Creatures of clay -vain dwellers in the dust!
The moth survives you, and are ye more just?
Things of a day! you wither ere the night,
Heedless and blind to Wisdom's wasted light!"
MÔ PHỎNG THƠ CATULLUS – GỬI ELLEN
Muốn hôn đôi mắt bừng như lửa
Dìm nỗi đam mê cả triệu lần
Để trên bờ môi niềm hoan hỉ
Bằng trăm năm trong một nụ hôn.
Tâm hồn của anh đang khao khát
Chỉ muốn ôm em để hôn em
Chẳng có điều gì ngăn cản được
Anh chỉ hôn em, và chỉ hôn.
Cứ để nụ hôn không đếm xuể
Như lúa vô vàn giữa đồng kia.
Mình chia tay ư? – thật nhảm nhí
Anh sẽ thôi hôn? – không bao giờ!
Imitated From Catullus. To Ellen
Oh! might I kiss those eyes of fire,
A million scarce would quench desire:
Still would I steep my lips in bliss,
And dwell an age on every kiss;
Nor then my soul should sated be,
Still would I kiss and cling to thee:
Nought should my kiss from thine dissever;
Still would we kiss, and kiss for ever,
E'en though the numbers did exceed
The yellow harvest's countless seed.
To part would be a vain endeavor:
Could I desist? -- ah! never -- never!
MÔ PHỎNG THƠ TIBULLUS
Cerinthus nghiệt ngã thay! Anh đây sắp chết
Có phải em đang vui vì bệnh hoạn của anh?
Than ôi! Anh vẫn muốn vượt qua bệnh tật
Để lại được sống với tình và để sống vì em
Nhưng anh cũng sẽ không khóc vì số kiếp
Chỉ cái chết cứu anh khỏi thù hận của em.
Imitation Of Tibullus
Cruel Cerinthus! does the fell disease
Which racks my breast your fickle bosom please?
Alas! I wish'd but to o'ercome the pain,
That I might live for love and you again;
But now I scarcely shall bewail my fate:
By death alone I can avoid your hate.
THƠ MỘ CHÍ CỦA TÔI
Tuổi trẻ, Thiên nhiên và Chúa trời quyền lực
Muốn để cho tôi cứ thắp sáng ngọn đèn
Nhưng bác sĩ Romanelli vẫn cứ kiên gan
Chiến thắng cả ba, và ngọn đèn tôi tắt.
My Epitaph
Youth, Nature, and relenting Jove,
To keep my Lamp in strongly strove;
But Romanelli was so stout,
He beat all three, and blew it out.
Một số nhà thơ Anh khác:
Percy Bysshe Shelley
William Butler Yeats
Rudyard Kipling
Robert Burns
Thomas Moore
William Shakespeare