Kann dich kein Engel erlösen. ĐÊM Đêm gần gũi và quyến rũ lạ cùng Hai đứa hiểu nhau trong từng ý nghĩ Chúng tôi sinh ra trong cùng xứ sở Và coi nhau như những người anh em. Sau đó nàng lấy tấm vải giăng ra Và ôm lấy tôi với lòng tha thiết Khẽ gật đầu, lên má tôi ve vuốt Và hỏi tôi: anh đã sẵn sàng chưa? 1907 Die Nacht Die nacht ist mir so nah bekannt, Wir können unsre gedanken lesen, Wir haben dasselbe vaterland, Wir sind vorzeiten geshwister gewesen. Und abermal um eine zeit Da wird sie mich so ganz umfangen! Sie nickt, sie streichelt meine wangen Und fragt: bist du bereit ?
TÌNH CA Anh là hươu, còn em là nai Em là chim, còn anh là cây Em là mặt trời, anh là tuyết trắng Em là ngày, anh là giấc mộng say. Từ đôi môi ngủ trong đêm anh gửi Con chim vàng sẽ bay đến bên em Giọng yêu thương, đôi cánh màu sặc sỡ Chim hót cho em câu hát yêu thương Một bài ca của tình anh chan chứa. Liebeslied Ich bin der Hirsch und du das Reh, Der Vogel du und ich der Baum, Die Sonne du und ich der Schnee, Du bist der Tag und ich der Traum. Nachts aus meinem schlafenden Mund Fliegt ein Goldvogel zu dir, Hell ist seine Stimme, sein Flügel bunt, Der singt dir das Lied voll der Liebe, Der singt dir das Lied von mir.
NGÀY MÙA ĐÔNG Ôi ánh sáng mới tuyệt vời làm sao Ngày hôm nay sáng ngời trong ánh tuyết Từ xa xa một màu hồng sáng rực Nhưng mùa hè thì có phải hè đâu. Ôi chân dung xa vắng của cô dâu Thơ của tôi về em còn hát mãi Ôi ngọn lửa tình bạn bè rực cháy Nhưng tình yêu thì có phải tình đâu. Ánh trăng của tình bè bạn sáng lên Tôi sẽ còn thơ thẩn lâu trong tuyết Cho đến khi trên núi đồi, hồ nước Ngọn lửa tình yêu mùa hạ cháy bừng. Wintertag O wie schoen das Licht heut im Schnee verblueht, o wie zart die rosige Ferne glueht! - Aber Sommer, Sommer ist es nicht . Du, zu der mein Lied allstuendlich spricht . Ferne Brautgestalt, O wie zart mir deine Freundschaft strahlt! - Aber Liebe, Liebe ist es nicht . Lang muss Mondschein der Freundschaft bluehn, lange muss ich stehn im Schnee, bis einst du und Himmel, Berg und See tief im Sommerbrand der Liebe gluehn .
abwechselnd Stein in dir wird und Gestirn. CHO GIẤC MỘNG NGÀY MAI Anh muốn hát ru em như ngày cũ Hát đưa nôi mẹ từng hát ru ta. Để ru em vào giấc mộng và chờ Em trở về với anh từ giấc ngủ. Rồi anh anh sẽ lắng nghe từng hơi thở Anh nép mình bên cửa sổ lặng yên Để sáng ra anh biết, chỉ một mình Ôi, cái đêm vừa qua sao lạnh thế. Khu vườn khẽ rùng mình sau cửa sổ Khi ngôi sao trên chiếc lá rơi lên Trong giấc mơ em hãy ngó nhìn xem: Ánh mắt anh như bàn tay dịu nhẹ. Những bàn tay giữ gìn em rất khẽ Và ít khi đặt em ở trên giường Trong khoảnh khắc, khi trong sự lặng yên Anh nghe ra tiếng thì thào ai đó. Zum Einschlafen zu sagen Ich möchte jemanden einsingen, bei jemandem sitzen und sein. Ich möchte dich wiegen und kleinsingen und begleiten schlafaus und schlafein. Ich möchte der Einzige sein im Haus, der wüsste: die Nacht war kalt. Und möchte horchen herein und hinaus in dich, in die Welt, in den Wald. Die Uhren rufen sich schlagend an, und man sieht der Zeit auf den Grund. Und unten geht noch ein fremder Mann und stört einen fremden Hund. Dahinter wird Stille. Ich habe groß die Augen auf dich gelegt; und sie halten dich sanft und lassen dich los,
wenn ein Ding sich im Dunkel bewegt.
BẦU TRỜI ĐÊM VÀ SAO RỤNG Bầu trời đêm mờ mờ trong ánh bạc Đêm muốn khoe vẻ đặc biệt của mình Ta thật xa, để cùng đêm hoà nhập Và quá gần, để không hiểu về đêm. Ngôi sao rụng!... Và em hãy vội nhìn Em hãy đoán ra trong giờ phút ấy… Điều gì "có" và "không" chốn trần gian Ai có lỗi? Ai người không có lỗi?… Nachthimmel und Sternenfall Der Himmel, groß, voll herrlicher Verhaltung, ein Vorrat Raum, ein Übermaß von Welt. Und wir, zu ferne für die Angestaltung, zu nahe für die Abkehr hingestellt. Da fällt ein Stern! Und unser Wunsch an ihn, bestürzten Aufblicks, dringend angeschlossen: Was ist begonnen, und was ist verflossen? Was ist verschuldet? Und was ist verziehn?
MÙA THU Những chiếc lá rơi từ cõi xa xăm Có vẻ như vườn địa đàng héo úa Để lá rơi, rơi rụng xuống trên đồng. Và trong đêm rơi xuống giữa cô đơn Trái đất nặng, từ trời sao mờ tỏ. Ta đang rơi. Muôn đời nay vẫn thế Sự rụng rơi hiện trong ánh mắt người. Nhưng dường như tất cả rụng rơi này Có ai đấy trong tay mình giữ lại.
Herbst Die Blätter fallen, fallen wie von weit, als welkten in den Himmeln ferne Gärten; sie fallen mit verneinender Gebärde. Und in den Nächten fällt die schwere Erde aus allen Sternen in die Einsamkeit. Wir alle fallen. Diese Hand da fällt. Und sieh dir andre an: es ist in allen. Und doch ist Einer, welcher dieses Fallen unendlich sanft in seinen Händen hält. Xem thêm:
Tôi bây giờ đã là ba lăm tuổi Còn em thì chỉ vừa mới mười lăm Nhưng mỗi lần nhìn em, Jenny ạ Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng! Vào năm một nghìn tám trăm mười bảy Tôi gặp một người con gái như em Mái tóc của nàng giống như em vậy Giống cả nụ cười, dáng vẻ tự nhiên. Thế rồi tôi bước vào trường Đại học Tôi dặn nàng: “Hãy gắng đợi chờ anh Anh sẽ quay về một ngày gần nhất” Nàng nói rằng: “Em mãi mãi của anh”. Ba năm trời học ở Göttingen Ba năm miệt mài với bao sách luật Thế rồi một hôm nhận thư biết được Người yêu của tôi đã bước theo chồng. Khi đó tháng Năm, khi đó mùa xuân Những bông hoa nở đầy trong thung lũng Những con chim đã cất tiếng hót vang Những con sâu cũng vui đùa trong nắng. Nhưng tôi buồn, xanh xao và u ám Vì buồn đau mà sức lực không còn Chỉ có Chúa Trời may ra thấu tận Những điều gì tôi đã chịu hằng đêm. Nhưng tôi phục hồi. Như cây sồi xanh Vẻ mạnh mẽ hiện trong từng nhánh lá Giờ mỗi lần nhìn em, Jenny ạ Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!
An Jenny Ich bin nun fünfunddreißig Jahr alt, Und du bist fünfzehnjährig kaum ... O Jenny, wenn ich dich betrachte, Erwacht in mir der alte Traum! Im Jahre achtzehnhundert siebzehn Sah ich ein Mädchen, wunderbar Dir ähnlich an Gestalt und Wesen, Auch trug sie ganz wie du das Haar. Ich geh auf Universitäten, Sprach ich zu ihr, ich komm zurück In kurzer Zeit, erwarte meiner. Sie sprach: "Du bist mein einzges Glück." Drei Jahre schon hatt ich Pandekten Studiert, als ich am ersten Mai Zu Göttingen die Nachricht hörte, Daß meine Braut vermählet sei. Es war am ersten Mai! Der Frühling Zog lachend grün durch Feld und Tal, Die Vögel sangen, und es freute Sich jeder Wurm im Sonnenstrahl. Ich aber wurde blaß und kränklich, Und meine Kräfte nahmen ab; Der liebe Gott nur kann es wissen, Was ich des Nachts gelitten hab. Doch ich genas. Meine Gesundheit Ist jetzt so stark wie'n Eichenbaum ... O Jenny, wenn ich dich betrachte, Erwacht in mir der alte Traum!
HÌNH DẠNG CỦA NHÂN SƯ
Hình dạng của Nhân sư* Gán vào người phụ nữ Chỉ khác phần phụ là Thân hình con sư tử. Bóng đen của cái chết Đây quả đúng Nhân sư Câu hỏi không giải ra Cha của chàng Ê-đíp**. Cũng may, lời giải đáp Tôi không đủ sức làm Nếu không, cả thế gian Sẽ hoang tàn đổ nát. ___________ *Nhân sư (Sphinx) - là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp. **Ê-đíp (Oedipus) – là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử, Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình. Die Gestalt der wahren Sphinx Die Gestalt der wahren Sphinx Weicht nicht ab von der des Weibes; Faselei ist jener Zusatz Des betatzten Löwenleibes. Todesdunkel ist das Rätsel Dieser wahren Sphinx. Es hatte Kein so schweres zu erraten Frau Jokastens Sohn und Gatte. Doch zum Glücke kennt sein eignes Rätsel nicht das Frauenzimmer; Spräch es aus das Lösungswort, Fiele diese Welt in Trümmer.
VỢ CHỒNG KẺ CẮP
Khi Laura say sưa Hôn tôi và âu yếm Thì anh chồng khốn nạn Lấy sạch tiền của tôi. Bây giờ túi tôi rỗng Chẳng lẽ tại Laura Lẽ thật là cái gì? Phi-lát đâu cần chứng*. Thế giới này dối gian Tôi cần mau từ giã Sống mà không có tiền Coi như chết một nửa. Hỡi những hồn hằng phúc Tôi muốn về đó ngay Nơi đó có đủ đầy Không ai cần ăn cắp. _______ *Lẽ thật là cái gì? – đây là câu mà quan xét xử Phi-lát hỏi Giêsu trong Kinh Thánh (Giăng, 18: 38). Schnapphahn und Schnapphenne Derweilen auf dem Lotterbette Mich Lauras Arm umschlang - der Fuchs, Ihr Herr Gemahl, aus meiner Buchs Stibitzt er mir die Bankbillette. Da steh ich nun mit leeren Taschen! War Lauras Kuß gleichfalls nur Lug? Ach! Was ist Wahrheit? Also frug Pilat und tät die Händ sich waschen. Die böse Welt, die so verdorben, Verlaß ich bald, die böse Welt. Ich merke: hat der Mensch kein Geld, So ist der Mensch schon halb gestorben. Nach Euch, Ihr ehrlich reinen Seelen, Die Ihr bewohnt das Reich des Lichts, Sehnt sich mein Herz. Dort braucht Ihr nichts, Und braucht deshalb auch nicht zu stehlen.
ĂN MẶN ĂN CHAY
Bạn tôi ơi, phạm thượng! Khi bạn làm điều này: Bỏ Hanne tròn lẳn Để yêu Marianne gầy! Nếu yêu thịt – thì bạn Được coi là bình thường Còn phóng đãng với xương Điều này là ghê tởm. Quỉ Sa tăng nham hiểm Đưa ta vào bẫy đây Giống như người ăn mặn Bỗng dưng thích ăn chay. Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig Wirst du deiner fetten Hanne, Und du liebst jetzt jene spinnig Dürre, magre Marianne! Läßt man sich vom Fleische locken, Das ist immer noch verzeihlich; Aber Buhlschaft mit den Knochen, Diese Sünde ist abscheulich! Das ist Satans böse Tücke, Er verwirret unsre Sinne: Wir verlassen eine Dicke, Und wir nehmen eine Dünne!
VẾT THƯƠNG HẠNH PHÚC
Khi có em trong tay! Một niềm vui hạnh phúc Trong lòng tôi tràn ngập Những mơ ước diệu kỳ. Khi có em trong tay! Tôi hôn lên mái tóc Mái tóc vàng tuyệt đẹp Buông xõa trên vai này. Khi có em trong tay! Tôi tin rằng hiện thực Cõi thiên đường hạnh phúc Ngay trên mặt đất này. Nhưng như Thánh ngờ vực! Tôi còn nghi điều này Khi chưa đặt ngón tay Vào vết thương hạnh phúc. ____________ *Thánh ngờ vực (Thomas) – tức Thánh Tô-ma tông đồ hay còn gọi là Tô-ma đa nghi hoặc Đi-đi-mô (Didymos). Là một trong 12 tông đồ của Giêsu, Ngài không tin bất cứ điều gì khi không chỉ nhìn tận mặt mà còn phải sờ tận tay (Giăng, 20: 25-28).
Der Ungläubige Du wirst in meinen Armen ruhn! Von Wonnen sonder Schranken Erbebt und schwillt mein ganzes Herz Bei diesem Zaubergedanken. Du wirst in meinen Armen ruhn! Ich spiele mit den schönen Goldlocken! Dein holdes Köpfchen wird An meine Schultern lehnen. Du wirst in meinen Armen ruhn! Der Traum will Wahrheit werden, Ich soll des Himmels höchste Lust Hier schon genießen auf Erden. O, heil’ger Thomas! Ich glaub’ es kaum! Ich zweifle bis zur Stunde, Wo ich den Finger legen kann In meines Glückes Wunde.
BÂY GIỜ TÔI MỚI NÓI
Cái chết về. Bây giờ tôi mới nói
Đành bỏ qua thề thốt một lời nguyền
Rằng con tim đã bao năm nhức nhối
Một nỗi buồn mòn mỏi chỉ vì em.
Quan tài đợi. Và bóng đen cau có
Tôi ngủ quên trong giấc ngủ muôn đời
Chỉ mình em, Maria, hãy nhớ
Chỉ mình em khóc thương tiếc cho tôi.
Bàn tay đẹp em nhớ đừng làm hỏng
Chỉ thế thôi số phận của con người
Ai chỉ sống với cuộc đời cao thượng
Khi chết rồi chỉ còn tiếc mà thôi.
Es kommt der Tod - jetzt will ich sagen
Es kommt der Tod - jetzt will ich sagen,
Was zu verschweigen ewiglich
Mein Stolz gebot: für dich, für dich,
Es hat mein Herz für dich geschlagen!
Der Sarg ist fertig, sie versenken
Mich in die Gruft. Da hab ich Ruh.
Doch du, doch du, Maria, du
Wirst weinen oft und mein gedenken.
Du ringst sogar die schönen Hände -
O tröste dich - Das ist das Los,
Das Menschenlos: - was gut und groß
Und schön, das nimmt ein schlechtes Ende.
CÔ GÁI BÊN BỜ BIỂN
Cô gái bên bờ biển
Đưa mắt nhìn hoàng hôn
Cô thở dài ngao ngán
Nhìn hoàng hôn sắp tàn.
Cô gái ơi đừng khóc
Tất cả sẽ qua mau
Mặt trời chìm phía trước
Rồi thức dậy phía sau.
Das Fräulein stand am Meere
Das Fräulein stand am Meere
Und seufzte lang und bang,
Es rührte sie so sehre
Der Sonnenuntergang.
Mein Fräulein! sein Sie munter,
Das ist ein altes Stück;
Hier vorne geht sie unter
Und kehrt von hinten zurück.
HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
Phụ nữ như bọ chét Nhiều bọ chét – ngứa nhiều Âm thầm chịu đớn đau Chẳng còn cách nào khác. Họ trả thù tinh khôn Thức giấc trong đêm vắng Bạn ôm nàng âu yếm Nàng với bạn – quay lưng. Zum Hausfrieden
Viele Weiber, viele Flöhe, Viele Flöhe, vieles Jucken – Thun sie heimlich dir ein Wehe, Darfst du dennoch dich nicht mucken. Denn sie rächen, schelmisch lächelnd, Sich zur Nachtzeit – Willst du drücken Sie an’s Herze, lieberöchelnd, Ach, da dreh’n sie dir den Rücken.
VỚI NHỮNG CÔ GÁI ĐẦN
Với những cô gái đần, tôi thường nghĩ Khó mà làm ăn với kẻ ngu đần Nhưng khi tôi gặp những cô thông minh Thì hiểu rằng còn khó hơn thế nữa. Người thông minh thì lại quá khôn ngoan Nhiều câu hỏi làm tôi mất kiên nhẫn Và khi tôi hỏi họ điều quan trọng Thì họ mỉm cười một cách tinh ranh. Mit dummen Mädchen, hab ich gedacht Mit dummen Mädchen, hab ich gedacht, Nichts ist mit dummen anzufangen; Doch als ich mich an die klugen gemacht, Da ist es mir noch schlimmer ergangen. Die klugen waren mir viel zu klug, Ihr Fragen machte mich ungeduldig, Und wenn ich selber das Wichtigste frug, Da blieben sie lachend die Antwort schuldig. DAN DÍU VỚI ĐÀN BÀ
Dan díu với đàn bà bạn hãy nên khiêm tốn Hãy nhớ tiết kiệm lời và đừng vội nói tên Bởi nếu nàng tốt – thì cho nàng giữ kín Còn nếu không – thì cũng giữ cho mình. Hast du vertrauten Umgang mit Damen Hast du vertrauten Umgang mit Damen, Schweig, Freundchen, stille und nenne nie Namen: Um ihrentwillen, wenn sie fein sind, Um deinetwillen, wenn sie gemein sind.
TRÊN BẢO DƯỚI KHÔNG NGHE
Một cô gái tóc đen Đưa bàn tay ve vuốt Mái đầu tôi đã bạc Nước mắt chảy ròng ròng. Người tôi bị uốn cong Nụ hôn làm mù mắt Héo hon trong đầu óc Vì những nụ hôn nồng. Thân tôi như xác chết Linh hồn bị cầm tù Trên bảo dưới không nghe Chẳng biết làm sao được. Sự bất lực chết tiệt! Giống như một bầy ruồi Chỉ đành chịu đựng thôi Đành nguyện cầu và khóc. Es hatte mein Haupt die schwarze Frau Es hatte mein Haupt die schwarze Frau Zärtlich an’s Herz geschlossen; Ach! meine Haare wurden grau, Wo ihre Thränen geflossen. Sie küßte mich lahm, sie küßte mich krank, Sie küßte mir blind die Augen; Das Mark aus meinem Rückgrat trank Ihr Mund mit wildem Saugen. Mein Leib ist jetzt ein Leichnam, worin Der Geist ist eingekerkert – Manchmal wird ihm unwirsch zu Sinn, Er tobt und rast und berserkert. Ohnmächtige Flüche! Dein schlimmster Fluch Wird keine Fliege tödten. Ertrage die Schickung, und versuch’ Gelinde zu flennen, zu beten.
HÃY NGUYỆN CẦU ĐỨC MẸ
Hãy nguyện cầu Đức Mẹ
Và hai thánh Phúc Âm*.
Nhưng hôm nay anh chỉ
Cầu mặt trời của anh.
Hỡi mặt trời dịu dàng
Cho anh xin nụ hôn
Hãy cười cùng thi sĩ
Hỡi mặt trời của anh.
______
*Thánh Phaolô và Phêrô (Paul và Peter).
Andre beten zur Madonne
Andre beten zur Madonne,
Andre auch zu Paul und Peter;
Ich jedoch, ich will nur beten,
Nur zu dir, du schöne Sonne.
Gib mir Küsse, gib mir Wonne,
Sei mir gütig, sei mir gnädig,
Schönste Sonne unter den Mädchen,
Schönstes Mädchen unter der Sonne!
ÁNH TRĂNG
Ánh trăng soi sóng sánh
Trên sóng biển rì rào
Trăng trên trời yên lặng
Và sáng tỏ biết bao.
Em cũng vậy, lặng yên
Đi trên đường sáng tỏ
Nhưng bóng em rung lên
Trong tim này run rẩy.
Wie des Mondes Abbild zittert
Wie des Mondes Abbild zittert
In den wilden Meereswogen,
Und er selber still und sicher
Wandelt an dem Himmelsbogen:
Also wandelst du, Geliebte,
Still und sicher, und es zittert
Nur dein Abbild mir im Herzen,
Weil mein eignes Herz erschüttert.
DÙ EM Ở ĐÂU
Dù em ở đâu thì anh vẫn thế
Ở khắp nơi, anh vẫn gặp hàng ngày
Em càng muốn xa anh, càng khó dễ
Anh lại càng yêu em đến mê say.
Cơn giận của em làm anh dễ chịu
Trước mặt em anh luống cuống, ngại ngùng.
Nếu em muốn cho anh thôi quấy nhiễu
Hãy nhớ rằng em cần phải yêu anh.
Überall, wo du auch wandelst
Überall, wo du auch wandelst,
Schaust du mich zu allen Stunden,
Und je mehr du mich mißhandelst,
Treuer bleib ich dir verbunden.
Denn mich fesselt holde Bosheit,
Wie mich Güte stets vertrieben;
Willst du sicher meiner los sein,
Mußt du dich in mich verlieben.
NHỮNG BÔNG HOA VƯƠN MÌNH
Những bông hoa vươn mình
Phía ánh mặt trời hướng đến
Và sông gửi từng con sóng
Về phía biển xanh.
Còn tôi, những bài ca của mình
Tôi đem gửi cho người tôi yêu mến
Cả nước mắt, cả những lời đau đớn
Bài ca ơi, hãy mang đến cho nàng.
Es schauen die Blumen alle
Es schauen die Blumen alle
Zur leuchtenden Sonne hinauf;
Es nehmen die Ströme alle
Zum leuchtenden Meere den Lauf.
Es flattern die Lieder alle
Zu meinem leuchtenden Lieb;
Nehmt mit meine Tränen und Seufzer,
Ihr Lieder, wehmütig und trüb!
ANH ĐÃ KHÓC
Anh đã khóc trong giấc mơ của mình
Vì thấy em đã nằm yên trong mộ
Anh tỉnh giấc, và bây giờ dòng lệ
Vẫn chảy dài trên đôi má của anh.
Anh đã khóc trong giấc mơ của mình
Vì thấy em không còn yêu anh nữa
Anh tỉnh giấc, và đã khóc nức nở
Khóc thật lâu cho cay đắng cuộc tình.
Anh đã khóc trong giấc mơ của mình
Khi thấy em vẫn yêu anh như thế
Anh tỉnh giấc, và bây giờ dòng lệ
Vẫn chảy thành dòng trên má của anh.
Ich hab im Traum geweinet
Ich hab im Traum geweinet,
Mir träumte, du lägest im Grab.
Ich wachte auf, und die Träne
Floß noch von der Wange herab.
Ich hab im Traum geweinet,
Mir träumt', du verließest mich.
Ich wachte auf, und ich weinte
Noch lange bitterlich.
Ich hab im Traum geweinet,
Mir träumte, du bliebest mir gut.
Ich wachte auf, und noch immer
Strömt meine Tränenflut.
CHÀNG TRAI YÊU CÔ GÁI
Chàng trai yêu cô gái
Cô lại đi yêu người
Còn người này lại gọi
Cô khác là vợ tôi.
Cô gái thường lấy người
Đầu tiên mà mình gặp
Rồi khổ đau, khóc lóc
Chàng cũng khổ không nguôi.
Câu chuyện này xưa cũ
Nhưng vẫn mới muôn đời
Chuyện xảy ra với ai
Tim vỡ thành hai nửa.
Ein Jüngling liebt ein Mädchen
Ein Jüngling liebt ein Mädchen,
Die hat einen andern erwählt;
Der andre liebt eine andre,
Und hat sich mit dieser vermählt.
Das Mädchen heiratet aus Ärger
Den ersten besten Mann,
Der ihr in den Weg gelaufen;
Der Jüngling ist übel dran.
Es ist eine alte Geschichte,
Doch bleibt sie immer neu;
Und wem sie just passieret,
Dem bricht das Herz entzwei.
HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH
Cô bé Hạnh phúc thì luôn đỏng đảnh
Không khi nào một chỗ chịu ngồi yên
Sửa mớ tóc trên trán bạn vội vàng
Khẽ hôn bạn rồi bỏ đi nhanh chóng.
Cô gái Bất hạnh, trái lại, khiêm tốn
Ôm hôn bạn bằng trái tim yêu thương
Và luôn miệng nói rằng không vội vàng
Ngồi bên giường đan áo len cho bạn.
Das Glück ist eine leichte Dirne
Das Glück ist eine leichte Dirne,
Und weilt nicht gern am selben Ort;
Sie streicht das Haar dir von der Stirne
Und küßt dich rasch und flattert fort.
Frau Unglück hat im Gegentheile
Dich liebefest an’s Herz gedrückt;
Sie sagt, sie habe keine Eile,
Setzt sich zu dir an’s Bett und strickt.
HOA HỒNG HOA HUỆ
Hoa hồng, hoa huệ, bồ câu, mặt trời
Tôi từng yêu nhưng chỉ trong giây lát
Giờ quên hết, chỉ còn lại một người
Đằm thắm, dịu dàng, dịu êm, tinh khiết
Em là niềm vui, em là hạnh phúc
Hoa hồng, hoa huệ, bồ câu, mặt trời.
Die Rose, die Lilie, die Taube, die Sonne
Die Rose, die Lilie, die Taube, die Sonne,
Die liebt’ ich einst alle in Liebeswonne.
Ich lieb’ sie nicht mehr, ich liebe alleine
Die Kleine, die Feine, die Reine, die Eine;
Sie selber, aller Liebe Bronne,
Ist Rose und Lilie und Taube und Sonne.
RƯỢU UỐNG HẾT TRƠN Rượu uống hết trơn, bữa ăn ngon miệng Hai cô em đôi má đã ửng hồng Vẻ bạo dạn, áo ngực thì trễ xuống Cả hai người vì rượu đã lâng lâng. Vai trắng ngần, bộ ngực đẹp vô cùng Con tim tôi run lên vì sợ hãi Cả hai cùng cười vang và sau đấy Nhảy lên giường rồi chui vội vào chăn. Tôi đang định đưa tay lên kéo rèm Thì đã nghe vang khò khè tiếng ngáy Tôi ngơ ngác giống như thằng ngốc vậy Có vẻ như đấy không phải giường mình. Die Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut Die Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut, Die Dämchen sind rosig erhitzet; Sie lüften das Mieder mit Übermut, Ich glaube, sie sind bespitzet. Die Schulter wie weiß, die Brüstchen wie nett! Mein Herz erbebet vor Schrecken. Nun werfen sie lachend sich aufs Bett, Und hüllen sich ein mit den Decken. Sie ziehen nun gar die Gardinen vor, Und schnarchen am End um die Wette. Da steh ich im Zimmer ein einsamer Tor, Betrachte verlegen das Bette.
TUỔI TRẺ ĐÃ KHÔNG CÒN Tuổi trẻ đã không còn Tôi giờ bạo dạn hơn Bàn tay tôi can đảm Ve vuốt những eo thon. Có cô từng giật mình Định nổi cơn tam bành Trước những lời mật ngọt Dần dà cũng xuôi êm. Nhưng điều quan trọng hơn Là giờ đây không còn Vẻ hồn nhiên, dại dột Ngơ ngác của cừu non. Jugend, die mir täglich schwindet Jugend, die mir täglich schwindet, Wird durch raschen Muth ersetzt, Und mein kühn’rer Arm umwindet Noch viel schlankre Hüften jetzt. That auch manche sehr erschrocken, Hat sie doch sich bald gefügt; Holder Zorn, verschämtes Stocken Wird von Schmeichelen besiegt. Doch, wenn ich den Sieg genieße, Fehlt das Beste mir dabey. Ist es die verschwundne, süße, Blöde Jugendeseley?
NHÃ CA Thân thể người phụ nữ Quả là một bài thơ Do Thượng Đế tạo ra Từ ngày đầu sáng tạo. Trong một giờ nào đấy Ngài đã rất vui mừng Từ vật liệu đầu tiên Ngài bắt đầu làm chủ. Cơ thể người phụ nữ Quả là một bài ca Mà lời ca tuyệt vời Không gì hơn được nữa. Ý tưởng của Thượng Đế Chính là chiếc cổ trần Chính là mái tóc xoăn Đặt ở trên đầu nhỏ. Núm vú như nụ hồng Là bài thơ trào phúng Đẹp ngoài sự tưởng tượng Là lạch nhỏ cách ngăn. Ngài tạo ra cặp đùi Như làm bằng nhựa dẻo Đằng sau chiếc lá vả Là nơi chốn tuyệt vời. Thơ Ngài không trìu tượng Có da thịt, tay chân Biết cười và biết hôn Bằng bờ môi âu yếm. Thơ ở trong mọi chỗ Thơ ở từng bước đi Trên trán của bài ca Đẹp đến mức hoàn mỹ. Con khen Ngài, Thượng Đế Trước Ngài, xin cúi mình! So với Nhà thơ Thiên Con chỉ đồ cẩu thả. Con muốn chìm – Lạy Chúa! Trong tác phẩm của Ngài Suốt cả đêm cả ngày Con miệt mài nghiên cứu. Suốt cả đêm cả ngày Con không ngừng tìm hiểu Đôi chân con gầy yếu Vì sự nghiên cứu này.
Das Hohelied Des Weibes Leib ist ein Gedicht, Das Gott der Herr geschrieben Ins große Stammbuch der Natur, Als ihn der Geist getrieben. Ja, günstig war die Stunde ihm, Der Gott war hochbegeistert; Er hat den spröden, rebellischen Stoff Ganz künstlerisch bemeistert. Fürwahr, der Leib des Weibes ist Das Hohelied der Lieder; Gar wunderbare Strophen sind Die schlanken, weißen Glieder. O welche göttliche Idee Ist dieser Hals, der blanke, Worauf sich wiegt der kleine Kopf, Der lockige Hauptgedanke! Der Brüstchen Rosenknospen sind Epigrammatisch gefeilet; Unsäglich entzückend ist die Zäsur, Die streng den Busen teilet. Den plastischen Schöpfer offenbart Der Hüften Parallele; Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt Ist auch eine schöne Stelle. Das ist kein abstraktes Begriffspoem! Das Lied hat Fleisch und Rippen, Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt Mit schöngereimten Lippen. Hier atmet wahre Poesie! Anmut in jeder Wendung! Und auf der Stirne trägt das Lied Den Stempel der Vollendung. Lobsingen will ich dir, o Herr, Und dich im Staub anbeten! Wir sind nur Stümper gegen dich, Den himmlischen Poeten. Versenken will ich mich, o Herr, In deines Liedes Prächten; Ich widme seinem Studium Den Tag mitsamt den Nächten. Ja, Tag und Nacht studier ich dran, Will keine Zeit verlieren; Die Beine werden mir so dünn - Das kommt vom vielen Studieren.
MỘT GIẤC MƠ ĐÁNG SỢ Một giấc mơ đáng sợ Vừa sợ vừa buồn cười Có vẻ từ ngày đó Tôi không còn là tôi. Đó là một khu vườn Nơi mà tôi đi dạo Những bông hoa nở bừng Lòng tôi vui biết mấy. Có chim hót trên cành Những lời rất âu yếm Ánh mặt trời vàng óng Đang rót xuống vườn xanh. Hoa cỏ tỏa mùi hương Ngạt ngào trong cơn gió Dường như tất, tất cả Khoe vẻ đẹp của mình. Giữa hoa cỏ màu xanh Có một đài phun nước Một cô gái xinh đẹp Đang ngồi giặt áo quần. Đôi má đỏ, môi hồng Và mái tóc vàng óng Đôi mắt tôi tìm kiếm Nét vừa lạ vừa quen. Nàng vừa giặt áo quần Vừa cất lên tiếng hát: “Chảy đi, ơi dòng nước Giặt cho sạch cho nhanh”. Thấy vậy, tôi đến gần “Em ơi, cho tôi hỏi Thì thầm thôi, có phải Em giặt áo cho chồng?” Nàng trả lời rất nhanh: “Áo quan cho anh đấy!” Nói xong lời như vậy Nàng liền biến mất tăm. Và tôi đến khu rừng Tối tăm và hoang dã Đầy cây cao bóng cả Thấy ngạc nhiên vô cùng. Tiếp sau sự ngạc nhiên Nghe rõ ràng tiếng búa Giữa khu rừng hoang dã Tôi bước đi vội vàng. Bỗng thấy giữa khu rừng Có một cây sồi lớn Một cô gái bên cạnh Tay cầm búa lăm lăm. Nàng vung búa không ngừng Vừa chặt cây vừa hát: “Búa của ta bằng sắt Hãy đóng nhanh chiếc hòm”. Tôi lại bước đến gần “Em ơi, cho anh hỏi Ai bắt em làm vậy Sao lại đi đóng hòm?” Nàng lại trả lời nhanh: “Đóng hòm cho anh đấy!” Và y hệt lúc nãy Nàng lại biến mất tăm. Xung quanh đều tối đen Khắp nơi đều trống vắng Chẳng biết điều gì đến Tôi cảm thấy rùng mình. Tôi tiếp tục lang thang Thấy một dải màu trắng Liền vội vàng bước đến Và tôi lại thấy nàng. Mặc áo quần trắng tinh Trong tay cầm chiếc xẻng Nàng, theo tôi cảm nhận Vừa đẹp vừa kinh hoàng. Còn người đẹp vội vàng Vừa đào đất vừa hát “Xẻng của ta rộng, sắc Hãy đào huyệt cho nhanh”. Tôi lại bước đến gần “Em ơi, cho anh hỏi Em dễ thương như vậy Sao đào huyệt để chôn?” Nàng trả lời vội vàng: “Huyệt để chôn anh đấy!” Sau những lời như vậy Miệng huyệt đã mở toang. Đưa mắt nhìn vào trong Tôi rùng mình khủng khiếp Bỗng tôi ngã xuống huyệt – Và chợt tỉnh giấc nồng.
Ein Traum, gar seltsam schauerlich Ein Traum, gar seltsam schauerlich, Ergötzte und erschreckte mich. Noch schwebt mir vor manch grausig Bild, Und in dem Herzen wogt es wild. Das war ein Garten, wunderschön, Da wollt ich lustig mich ergehn; Viel schöne Blumen sahn mich an, Ich hatte meine Freude dran. Es zwitscherten die Vögelein Viel muntre Liebesmelodein; Die Sonne rot, von Gold umstrahlt, Die Blumen lustig bunt bemalt. Viel Balsamduft aus Kräutern rinnt, Die Lüfte wehen lieb und lind; Uns alles schimmert, alles lacht, Und zeigt mir freundlich seine Pracht. Inmitten in dem Blumenland Ein klarer Marmorbrunnen stand; Da schaut ich eine schöne Maid, Die emsig wusch ein weißes Kleid. Die Wänglein süß, die Äuglein mild, Ein blondgelocktes Heilgenbild; Und wie ich schau, die Maid ich fand So fremd und doch so wohlbekannt. Die schöne Maid, die sputet sich, Sie summt ein Lied gar wunderlich: »Rinne, rinne, Wässerlein, Wasche mir das Linnen rein.« Ich ging und nahete mich ihr, Und flüsterte: O sage mir, Du wunderschöne, süße Maid, Für wen ist dieses weiße Kleid? Da sprach sie schnell: Sei bald bereit, Ich wasche dir dein Totenkleid! Und als sie dies gesprochen kaum, Zerfloß das ganze Bild, wie Schaum. - Und fortgezaubert stand ich bald In einem düstern, wilden Wald. Die Bäume ragten himmelan; Ich stand erstaunt und sann und sann. Und horch! welch dumpfer Widerhall! Wie ferner Äxtenschläge Schall; Ich eil durch Busch und Wildnis fort, Und komm an einen freien Ort. Inmitten in dem grünen Raum, Da stand ein großer Eichenbaum; Und sieh! mein Mägdlein wundersam Haut mit dem Beil den Eichenstamm. Und Schlag auf Schlag, und sonder Weil, Summt sie ein Lied und schwingt das Beil: »Eisen blink, Eisen blank, Zimmre hurtig Eichenschrank.« Ich ging und nahete mich ihr, Und flüsterte: O sage mir, Du wundersüßes Mägdelein, Wem zimmerst du den Eichenschrein? Da sprach sie schnell: Die Zeit ist karg, Ich zimmre deinen Totensarg! Und als sie dies gesprochen kaum, Zerfloß das ganze Bild, wie Schaum. - Es lag so bleich, es lag so weit Ringsum nur kahle, kahle Heid; Ich wußte nicht, wie mir geschah, Und heimlich schaudernd stand ich da. Und nun ich eben fürder schweif, Gewahr ich einen weißen Streif; Ich eilt drauf zu, und eilt und stand, Und sieh! die schöne Maid ich fand. Auf weiter Heid stand weiße Maid, Grub tief die Erd mit Grabescheit. Kaum wagt ich noch sie anzuschaun, Sie war so schön und doch ein Graun. Die schöne Maid, die sputet sich, Sie summt ein Lied gar wunderlich: »Spaten, Spaten, scharf und breit, Schaufle Grube tief und weit.« Ich ging und nahete mich ihr, Und flüsterte: O sage mir, Du wunderschöne, süße Maid, Was diese Grube hier bedeut't? Da sprach sie schnell: »Sei still, ich hab Geschaufelt dir ein kühles Grab.« Und als so sprach die schöne Maid, Da öffnet sich die Grube weit; Und als ich in die Grube schaut, Ein kalter Schauer mich durchgraut; Und in die dunkle Grabesnacht Stürzt ich hinein - und bin erwacht. BÊN KIA SÔNG RANH Giữa đồng cỏ hoang sơ Giữa hoa hồng thơm ngát Láu lỉnh và khù khờ Yêu nhau theo đủ cách Trong nghệ thuật tình yêu Bậc thầy là người Pháp. Còn chúng ta hiểu nhau Người Đức chỉ biết ghét Chất chứa ở trong đầu Hận thù như thuốc độc Giá như mà đem rót Thùng Hai-đơ-béc bé teo*. ________________ *Thùng ở Heidelberg – là một chiếc thùng cực lớn bằng gỗ sồi có dung tích 212.422 lít dùng để ủ rượu vang được đặt ngầm dưới một tòa lâu đài. Đây là một danh thắng nổi tiếng của thành phố Heidelberg.
Diesseits und jenseits des Rheins Sanftes Rasen, wildes Kosen, Tändeln mit den glühnden Rosen, Holde Lüge, süßer Dunst, Die Veredlung roher Brunst, Kurz, der Liebe heitre Kunst - Da seid Meister ihr, Franzosen! Aber wir verstehn uns baß, Wir Germanen, auf den Haß. Aus Gemütes Tiefen quillt er, Deutscher Haß! Doch riesig schwillt er, Und mit seinem Gifte füllt er Schier das Heidelberger Faß.