Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Ba Lan. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Ba Lan. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Thơ tình Leopold Staff

Leopold Staff 


KHI Ở TRONG RỪNG ANH GẶP EM

Khi ở trong rừng anh gặp em
Tựa như trong giấc mộng êm đềm
Sao em không nói cùng anh vậy
Chỉ nghe tiếng vọng của lời em?

Khi ở trong vườn anh gặp em
Nơi mùi hương ngan ngát bốc lên
Tại sao em không ôm anh nhỉ
Chỉ phảng phất gần gũi của em?

Khi bên giếng nước anh gặp em
Bầu trời trong giếng nước màu xanh
Tại sao mắt em anh không thấy
Chỉ ánh nhìn từ nước chiếu lên?

Khi ở trong mơ anh gặp em
Chỉ đêm khuya khoắt với lặng yên
Sao em không sống trên đời vậy
Chỉ hồn anh tràn ngập hồn em?

Kiedy spotykam cię w lesie

 Kiedy spotykam cię w lesie,
Co szumem w sen się kołysze,
Pytam: "Dlaczego ty do mnie nie mówisz,
Lecz echo słów jeno twych słyszę?"

Gdy cię spotykam w ogrodzie,
Gdzie wonie zwiewa wiew chyży,
Pytam: "Dlaczego na pierś mi nie padasz,
Lecz jeno woń czuję twej bliży?"

Gdy cię spotykam nad studnią,
Gdzie niebo w wód śpi błękicie,
Pytam: "Dlaczego nie widzę twych oczu,
Lecz jeno ich w wodzie odbicie?"

Kiedy spotykam cię we śnie,
Który wykwita w noc z głuszy,
Pytam: "Dlaczego cię nie ma na świecie,
Lecz żyjesz jedynie w mej duszy?..."



ODYSSEUS

Đừng để những sai lầm
Đắng cay làm khổ bạn
Có vô vàn đường thẳng
Và ngàn vạn đường cong.

Quan trọng – là ta cần
Chỉ đi về phía trước
Mặc dù rất lắm lúc
Không về phía ta mong. 

Rồi sau ta vẫn còn
Dòng chữ trên bia đá
Đều như Ô-đi-xê cả
Khi trở về cố hương. 

Odys

Niech cie nie niepokoja
Cierpienia twe i bledy.
Wszedy sa drogi proste
Lecz i manowce wszedy.

O to chodzi jedynie,
By naprzod wciaz isc smialo,
Bo zawsze sie dochodzi
Gdzie indziej, niz sie chcialo.

Zostanie kamien z napisem:
Tu lezy taki i taki.
Kazdy z nas jest Odysem,
Co wraca do swej Itaki.



NỀN MÓNG

Tôi xây ngôi nhà trên cát
Ngôi nhà đổ nhào
Tôi xây ngôi nhà trên đá
Ngôi nhà vẫn đổ nhào
Nên bây giờ tôi bắt đầu
Xây nhà trên khói.

Podwaliny

Budowałem na piasku
I zawaliło się.
Budowałem na skale
I zawaliło się.
Teraz budując zacznę
Od dymu z komina.



TRÊN BỜ SÔNG

Tôi bước trên bờ sông 
Nghe thắt lại trong lòng – 
Niềm hạnh phúc đã chết 
Bỗng nhiên lại hồi sinh. 

Ánh hoàng hôn màu vàng 
Đang lặng lẽ héo tàn. 
Tôi ngồi trong bóng tối 
Ném đá xuống dòng sông.

Nad brzegiem

Żwirem brzegu idąc ponad rzeką,
Przystanąłem nagle jak przykuty.
Zmarłe szczęście błysnęło wspomnieniem
I przez setną część żyło minuty.

Niebo złotą dogasało zorzą
Konającej spokojnie pogody.
W niemym mroku siedziałem tam długo
I rzucałem kamienie do wody.



CÂY CẦU

Tôi đã không tin,
Khi đứng trước dòng sông
Rộng mênh mông và vách dựng đứng
Rằng tôi sẽ đi qua được chiếc cầu này –
Cây cầu làm bằng cây sậy mỏng
Bện với vỏ cây.
Tôi đi nhẹ nhàng như con bướm
Và như con voi, rất nặng.
Lảo đảo như người mù
Tôi đã không tin rằng sẽ đi qua.
Còn bây giờ, đứng trên bờ khác
Tôi vẫn không tin rằng đã bước qua cầu.

Most

Nie wierzyłem
Stojąc nad brzegiem rzeki,
Która była szeroka i rwista,
Że przejdę ten most,
Spleciony z cienkiej, kruchej trzciny
Powiązanej łykiem.
Szedłem lekko jak motyl
I ciężko jak słoń,
Szedłem pewnie jak tancerz
I chwiejnie jak ślepiec.
Nie wierzyłem, że przejdę ten most,
I gdy stoję już na drugim brzegu,
Nie wierzę, że go przeszedłem.



NGÀY CHỦ NHẬT

Tôi không đi đường này
Nơi đầy lá vàng rơi
Ở đây sau mỗi bước
Sâu hơn, thu đầy mây.
Trở lại màu xanh tươi
Tôi ngồi bên dòng nước
Nở hoa hướng bầu trời
Hoa “xin đừng quên tôi”
Đưa môi tìm ký ức
Cái tên của em thôi.

Niedziela

Nie pojde ta sciezk;
Wiednaca opadlymi lisсmi:
Tu z kazdym krokiem
Coraz glebsza, coraz mglistsza jesien,
Zawroce tam, gdzie zielono,
Do zrodla
Nad ktorym kwitna niebem
Dziecinne niezapominajki
I pamieс w ciszy szuka ustami
Twojego imienia.


HÃY NHÌN MÂY ĐEN

Hãy nhìn mây đen bay lượn giữa bầu trời
Những chị em của bão, của thời tiết xấu
Có bao nhiêu là dằn vặt, điên rồ trong đó
Bao nhiêu là khát khao, ý chí, tự do!

Đừng nói gì về hạnh phúc, ảo tưởng đã xưa!
Hạnh phúc không tạo ra gì ngoài hoài niệm cả
Chỉ một khoảnh khắc của niềm vui là đủ cho
Rất nhiều, rất nhiều năm đau khổ.  

Patrz na te chmury

Patrz na te chmury, co się kłębią w niebie,
Siostrzyce burz, niepogody!
Ileż w nich wichru, walki, męk, szału,
Pędu, wolności, swobody!

Nie mów o szczęściu, stara złudo!... Szczęście
Nie stwarza nic prócz wspomnienia,
A jedna chwila radości wystarczy
Na długie lata cierpienia.



ANH BƯỚC RA TÌM EM

Anh bước ra tìm Em buổi sớm mai đầy sợ hãi
Không tìm ra, anh nghĩ rằng mọi chuyện có gì sai
Và anh đã gặp Em trên đường, khi anh quay trở lại
Bởi vì Em suốt đời vẫn theo bước chân anh. 

Suốt cả ngày anh lang thang ở dưới bóng râm
Trong cái lạnh của ngày và dường như có lẽ
Để Em cháy lên trong hoàng hôn của anh ráng đỏ
Như ánh mặt trời trên dòng sông của buổi hoàng hôn.

Wyszedlem szukac...

Wyszedlem szukac Ciebie o swicie i w trwodze,
Nie znajdujac, myslalem, zem szedl droga klamna;
I spotkalem Cie, kiedym odwrocil sie w drodze,
Bowiem przez cale zycie krok w krok szedles za mna.

Wуdrowalem dzien caly pod cienia ciezarem,
W chlodzie-m poludnie minal, by oto u konca
Plonaс Toba, o zmierzchu mym, czerwonym zarem,
Jako wieczorna rzeka o zachodzie slonca.


GÁNH NẶNG

Tôi có một chiếc giỏ
Tôi muốn đựng trái cây
Dùng suốt mùa đông dài
Hoặc bánh mì, có thể. 

Đêm qua ai đặt đá
Cứng và nặng vô cùng
Tôi nghĩ: không ai cả
Đây – gánh nặng của mình.

Tôi mang nó bằng lưng
Mang những hòn đá nặng
Cho đến ngày cuối cùng
Đến nơi tôi sẽ đến.

Ciężar

Miałem pleciony kosz,
Chciałem weń włożyć owoce,
By je przechować na zimę,
A może miał to być chleb.

W nocy ktoś włożył mi w kosz kamienie,
Ciężkie i twarde,
Które nia miały posłużyć nikomu,
Tylko obarczyć mi grzbiet.

Lecz wezmę ten kosz na plecy,
Poniosę te kamienie,
Poniosę je do końca,
Aż tam.



TOLSTOY

Tolstoy đã thoát khỏi nỗi buồn
Có mọi thứ - mà không cần gì cả.
Tôi đang vui trên con đường gian khó
Người chủ nhân của cái bóng chính mình.

Tolstoj

Tolstoj uciekl od smutku
Mial wszystko, wiec nie mial nic.
Ide radosnie  w skwarde drog
Wlagciciel swego cienia.


Thơ tình Konstanty Gałczyński

Konstanty Gałczyński 


CHUYỆN TRÒ

- Anh yêu em như thế nào, anh hãy nói?
- Anh sẽ nói bây giờ…
- Anh nói đi.
- Anh yêu em ngày dưới mặt trời, đêm dưới nến
Yêu em khi em đội mũ, quàng khăn
Yêu em trong nhà hát, giữa ngã tư đường
Trong tím tử đinh hương, trong bạch dương, phúc bồn tử
Yêu em cả khi em đi làm, khi em ngủ
Và khi em đập quả trứng vỡ rất dễ thương
Ngay cả khi chiếc thìa nhỏ em buông.
Trong xe tắc xi, khi gần, khi xa thẳm
Và cả khi em đi bộ đến
Yêu em cả bắt đầu, cả ở cuối con đường
Khi em chải tóc bằng chiếc lược con.
Cả dưới biển, trên rừng, cả khi em khó xử
Yêu bây giờ. Yêu hôm qua, ngày mai. Cả ngày và đêm cũng thế
Và khi chim én bay về báo hiệu mùa xuân.
- Thế mùa hè anh có yêu em không?
- Cháy bừng như nắng hạ.
- Thế mùa thu mây đen khắp nơi, cây rụng lá?
- Anh yêu, ngay cả khi em đánh mất chiếc ô!
- Thế mùa đông, khi tuyết rơi bên cửa sổ trắng mờ?
- Ô! Mùa đông anh yêu em như ngọn lửa
Luôn ở trong tim em. Khi gần, khi xa cũng thế
Dù ở bên ngoài cửa sổ tuyết trắng rơi
Còn quạ đen bay dưới tuyết, giữa trời.



Rozmowa lirycna

- Powiedz mi jak mnie kochasz.
- Powiem.
- Więc?
- Kocham cie w słońcu. I przy blasku świec.
Kocham cię w kapeluszu i w berecie.
W wielkim wietrze na szosie, i na koncercie.
W bzach i w brzozach,
i w malinach, i w klonach.
I gdy śpisz. I gdy pracujesz skupiona.
I gdy jajko roztłukujesz ładnie -
nawet wtedy, gdy ci łyżka spadnie.
W taksówce. I w samochodzie. Bez wyjątku.
I na końcu ulicy. I na początku.
I gdy włosy grzebieniem rozdzielisz.
W niebezpieczeństwie. I na karuzeli.
W morzu. W górach. W kaloszach. I boso.
Dzisiaj. Wczoraj. I jutro. Dniem i nocą.
I wiosną, kiedy jaskółka przylata.
- A latem jak mnie kochasz?
- Jak treść lata.
- A jesienią, gdy chmurki i humorki?
- Nawet wtedy, gdy gubisz parasolki.
- A gdy zima posrebrzy ramy okien?
- Zimą kocham cię jak wesoły ogień.
Blisko przy twoim sercu. Koło niego.
A za oknami śnieg. Wrony na śniegu.


FARLANDIA

Anh và em mong gặp gỡ trên cầu
Để cùng nhau đi nói chuyện tình yêu
Dưới bóng cây phong, bên quầy thuốc lá.

Nhưng chuyện xảy ra như anh từng nghĩ
Quân vô chính phủ cho nổ tung cầu
Ta chẳng gặp nhau vì chuyện này sao?

Đời chật chội, khắp nơi đều khó ở
Nhưng anh biết rằng có xứ Farlandia
Bầu trời xanh, có những cành lá cọ.

Em chớ u sầu, chớ tuôn dòng lệ
Chớ lo âu rằng chúng đã phá cầu
Ở xứ sở kia mình sẽ gặp nhau.
*
Những cành cọ đung đưa
Những cành cọ đung đưa
Có--có--có.

Tất cả nơi này đầy đủ
Ta không đến đây lần nữa
Không--bao--giờ.

Chim làm tổ trên cành cọ
Chim uống nước từ lá cọ
Mi--ma--mi.

Quên hết những u buồn
Và ta nuôi giấc mơ suông
Bằng những cành lá cọ.

Những cành cọ đung đưa
Những cành cọ đung đưa
Quá nhiều lá cọ.

Chúng ta đi về xứ sở
Ngọt ngào, xa xôi, bé nhỏ
Có tên là Farlandia.
1934
 ______________
* Far land (tiếng Anh) — xứ sở xa xôi.

Farlandia

Myśmy mieli się spotkać na moście,
by pomówić o naszej miłości,
pod tym klonem, koło budki z papierosami;

ale, jakem przewidywał: oczywiście
most w powietrze wysadzili anarchiści,
no to gdzie się teraz spotkamy?

Wszędzie duszno i ciasno - lecz znam ja
pewien kraj pod nazwą Farlandia,
tam jest niebo śpiewające i palmy.

No, no, nie płacz, nie troskaj się. nie martw,
że tego mostu już nie ma --
my się jutro w Farlandii spotkajmy:

Palmy się kołyszą
palmy się kołyszą --
tak -- tak -- tak.

Tu wszystko zostało,
tu więcej nie wrócę --
nie -- nie -- nie.

Ptaki nad palmami,
w palmach słodkie miąższe --
mi -- ma -- mi.

Karmimy się snami,
a w snach znów najdroższe
palmy.

Palmy się kołyszą,
palmy się kołyszą --
za dużo.

To jest kraj, który jedziemy odkryć,
bardzo wiotki, bardzo słodki --
Farlandia.



TRƯỚC LĂNG LÊ-NIN

Tôi thấy ngày này hết lần này lượt khác
Không thể nào tôi quên được ngày này.
Gió trên Quảng trường Đỏ rất khắc nghiệt
Và trên Quảng trường hôm đó tuyết rơi. 

Tôi nhớ sau đó mặt trời ghé xuống
Chiếu trên Lăng, sau một ngày đẹp trời
Tôi lỗi lầm, sau nhiều năm phiêu lãng
Và cuối cùng cũng đến được nơi đây. 

Bao khúc tang chế vẫn cần được hát
Kèn hãy vang lên để tiếc thương ông
Người đã dịch chuyển trung tâm quả đất
Bằng ý chí vô sản về phía Đông.

Tôi đã thề: sẽ không bao giờ yếu đuối
Biến ngòi bút thành tia sáng tỏa hào quang
Thế kỷ mới bắt đầu. Chỉ hai lời như vậy:
LÊ-NIN.
1948

Przed mauzoleum Lenina

Ten dzień widzę znowu i znowu -
ten dzień - nigdy nie zapomnę o nim:
Wiatr surowy i rześki dął
i śnieg leżał na Placu Czerwonym.

Pamiętam, że zachodziło słońce
nad Mauzoleum, po pięknym dniu.
Grzeszny człowiek, po latach błądzeń
wreszcie dotarłem tu.

Ileż by jeszcze trzeba trąb, żałobnych nut!
Bo, że umarł, to ciągle boli -
Ten, który centrum globu przesunął na wschód
ramieniem proletariackiej woli.

Przysięgam: Już nigdy nie będę słaby,
pióro w promień przemienię i niech się promieni.
Oto nowe stulecie. A tylko dwie sylaby:
LENIN.



TÔI YÊU
Tặng Zygmunt Mycielski

Tôi yêu tiếng hót họa mi trong đêm
Trong đêm tháng năm thật khác thường
Và bầu trời đầy sao, thật hài hước
Như bản “Giao hưởng thiếu nhi” của Haydn. 

Nhưng tôi còn yêu tuyết nhiều hơn
Tuyết trên mái nhà Vác-sa-va đang ngủ
Váy em trắng và san hô trắng xóa
Nói tóm lại, là những thứ dịu dàng. 

Nhưng yêu nhất tiếng tu hú ở Praha
Mùa hè hót trên nấm mồ của mẹ
Và không xa trăng chiếu trên phố nhỏ
Nơi ngày nào từng nhìn thấy Sô-panh. 

Lubię...
Zygmuntom Mycielskiemu

Lubię słowika gwizdek
Noc, gdy majowa i fajna,
I niebo, nad tą nocą; takie śmieszne i gwiaździste
jak "Symfonia dziecięca" Haydna.

Ale berdziej lubię śnieg
śpiący na dachach Warszawy
i twoją hialą suknię, i twoje białe korale,
słowee, te wszystkie śnieżne sprawy.

Ale najbardziej lubię w Pradze pewną kukułkę,
co kuka latem nad matki mojej grobem,
a niedaleko księżyc wędruje zaułkiem,
przezktóry kiedyś szybko pędzł Szopen.

Thơ tình Adam Mickiewicz

Adam Mickiewicz 


NGHI NGỜ

Anh đau khổ khi không nhìn thấy em
Khi gặp em – rối bời anh đã chẳng
Nhưng nếu hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Thì anh buồn, anh cảm thấy cô đơn
Không làm sao trả lời được cho mình:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Khi ở xa nụ cười, ánh mắt của em
Hình bóng em, anh đã không tưởng tượng
Dù cố gắng, chỉ hoài công, phí uổng
Hình bóng rất gần tuyệt đẹp, lung linh
Anh không đoán ra đến tận bình minh:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Anh chịu đựng đã nhiều, nhưng dù thế
Em trong nỗi niềm cay đắng chẳng hình dung
Không mục đích, em không giữ con đường
Anh chẳng biết tìm đâu ra cánh cửa
Ai dẫn đường? Sao chẳng có lời khuyên:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Anh trao em sức khỏe, nếu em cần
Vì yên lặng của em, khổ đau anh chịu đựng
Và chẳng phải bằng những lời trống rỗng
Anh mong lặng yên, mong sức khỏe cho mình
Nhưng nguyên nhân của hẹn ước thề nguyền:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Có chạm đến chăng bàn tay kín thầm
Có lãng quên trong giấc mơ êm ái
Anh khó nhọc đến muôn đời, mãi mãi
Và nghi ngờ thức dậy giữa con tim
Và lí trí đòi hỏi một lời khuyên:
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

Bài thơ sáu khổ, không đọc cho anh
Người bạn nhà thơ - linh hồn báo mộng
Không biết từ đâu trên trang giấy trắng
Những tứ thơ, những vần điệu hiện ra?
Làm nức lòng, làm hứng khởi nhà thơ?
Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?


Niepewność


Gdy cię nie widzę, nie wzdycham, nie płaczę,
Nie tracę zmysłów, kiedy cię zobaczę;
Jednakże gdy cię długo nie oglądam,
Czegoś mi braknie, kogoś widzieć żądam;
I tęskniąc sobie zadaję pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Gdy z oczu znikniesz, nie mogę ni razu
W myśli twojego odnowić obrazu?
Jednakże nieraz czuję mimo chęci,
Że on jest zawsze blisko mej pamięci.
I znowu sobie powtarzam pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Cierpiałem nieraz, nie myślałem wcale,
Abym przed tobą szedł wylewać żale;
Idąc bez celu, nie pilnując drogi,
Sam nie pojmuję, jak w twe zajdę progi;
I wchodząc sobie zadaję pytanie;
Co tu mię wiodło? przyjaźń czy kochanie?

Dla twego zdrowia życia bym nie skąpił,
Po twą spokojność do piekieł bym zstąpił;
Choć śmiałej żądzy nie ma w sercu mojem,
Bym był dla ciebie zdrowiem i pokojem.
I znowu sobie powtarzam pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czy to jest kochanie?

Kiedy położysz rękę na me dłonie,
Luba mię jakaś spokojność owionie,
Zda się, że lekkim snem zakończę życie;
Lecz mnie przebudza żywsze serca bicie,
Które mi głośno zadaje pytanie:
Czy to jest przyjaźń? czyli też kochanie?

Kiedym dla ciebie tę piosenkę składał,
Wieszczy duch mymi ustami nie władał;
Pełen zdziwienia, sam się nie postrzegłem,
Skąd wziąłem myśli, jak na rymy wbiegłem;
I zapisałem na końcu pytanie:
Co mię natchnęło? przyjaźń czy kochanie?


GỬI VÀO ALBUM S. B

Đã qua phút giây hạnh phúc của mùa hè
Khi ta nhẹ nhàng dạo chơi trên đồng cỏ
Ngắt những bông hoa, ta bó thành một bó
Hoa bây giờ nơi đó chẳng tìm ra.

Quên bão giông, bóng tối giữa trời xanh
Ở nơi đó ánh vàng lên đồng cỏ
Tìm trang giấy cho bàn tay em nhỏ
Nhưng em ơi trang giấy thật khó tìm.

Thấy trang giấy, anh mang nó theo mình
Dù điều này em không còn trân trọng
Trang giấy này bàn tay anh sưởi ấm
Quà tặng cuối cùng anh gửi về em.

 W imionniku S.B.


Jaśniały chwile szczęśliwe, niestety!
Kiedy na błoniach był kwiatów dostatek,
Kiedy mi było łatwiej o bukiety
Niżeli teraz o kwiatek.

Ryknęły burze, ciągłe leją słoty,
Trudno wynaleźć na ojczystej błoni,
Trudno wynaleźć, gdzie kwiat błyskał złoty,
Listka dla przyjaznej dłoni.

Co wynalazłem, nich tobie poświęcę,
Racz wdzięcznie przyjąć, chociażby z tej miary,
Że był ten listek w przyjacielskiej ręce,
Że to ostatnie są dary.



HÃY NGỦ NGON

Hãy ngủ ngon! Anh chia tay với em
Để thiên thần đưa em vào giấc mộng
Hãy ngủ ngon! Đắm chìm vào quên lãng
Vẻ lặng yên sẽ mang đến trong lòng.

Từng phút giây em hãy ở bên anh
Một bước đi, một lời, em hãy nhớ
Để hình dung theo từng đường nét nhỏ
Gọi anh về từ bóng tối đêm đen!

Hãy ngủ ngon! Cho anh nhìn mắt em
Và gương mặt, cho anh nhìn có được?
Hãy ngủ ngon! Cho anh hôn lên ngực!

Em đừng đi, cho anh nói hai lời
Hãy ngủ ngon!… Em đóng cửa mất rồi
Anh nói trăm lần: "ngủ ngon" - để em không ngủ được.

Dobranoc


Dobranoc! już dziś więcej nie będziem bawili,
Niech snu anioł modrymi skrzydły cię otoczy,
Dobranoc, niech odpoczną po łzach twoje oczy,
Dobranoc, niech się serce pokojem zasili.

Dobranoc, z każdej ze mną przemówionej chwili
Niech zostanie dźwięk jakiś cichy i uroczy,
Niechaj gra w twoim uchu; a gdy myśl zamroczy,
Niech się mój obraz sennym źrenicom przymili.

Dobranoc, obróć jeszcze raz na mnie oczęta,
Pozwól lica. - Dobranoc - chcesz na sługi klasnąć?
Daj mi pierś ucałować. - Dobranoc, zapięta.

- Dobranoc, już uciekłaś i drzwi chcesz zatrzasnąć.
Dobranoc ci przez klamkę - niestety! zamknięta!
Powtarzając: dobranoc, nie dałbym ci zasnąć.



PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG BẮC

Nơi ta sống trị vì cơn bão tuyết
Có ghen chăng, những kẻ ở phương nam?
Miền đất mêng mông, không có tận cùng
Hoa trong bình minh và con tim rực lửa
Nhưng ở đó họa mi giờ đang ngủ
Những bông hồng, phút chốc đã ngắn hơn
Lục địa khô khan nhưng ký ức giữ gìn
Về những kẻ nằm trong mồ yên ngủ
Quý đất đai những ai nằm trong mộ
Và nhân gian muôn thuở chẳng hề quên.

Wschód i Północ

Porzuceni na swiata lodowatym końcu,
Nie zazdrośćmy krainom sąsiedniejszym słońcu:
Ich ląd kaszemirskiego ma barwę kobierca,
Kwiat z jedwabiu jutrzenki, z płomienia ich serca;
Lecz niech bulbul zabłyśnie - i wnet oko zmruży;
Wnet znikną w ziemi liście, w sercach pamięć róży.
A nasze lądy zimnym dochowują łonem
Pamięć istot straconych przed lat milijonem.
Jeśli ziemia tak długo chowa martwy szczątek,
Jakież są nasze serca - dla żywych pamiątek!



GỬI LAURA

Vừa thấy em, anh đã bừng cháy lên
Thấy người quen trong đôi mắt xa lạ
Đôi má em ửng lên một màu hồng
Như buổi bình minh hoa hồng vừa nở. 

Em vừa hát – anh đã tuôn dòng lệ
Tiếng hát thấu lòng, lay động con tim
Như thiên thần giữa không gian rộng mở
Nguyện hồn ai, bỗng gọi đúng tên mình.

Em thân yêu, em hãy mở tấm lòng
Anh không cần quan tâm vì số kiếp
Và những lời đàm tiếu của đám đông:

Rằng anh phải bỏ, vô vọng trong tình.
Dù kết hôn với người bằng thể xác
Thì hồn em đã gắn với hồn anh. 

Do Laury

Ledwiem ciebie zobaczył, jużem się zapłonił,
W nieznanym oku dawnej znajomości pytał;
I z twych jagód wzajemny rumieniec wykwitał,
Jak z róży, której piersi zaranek odsłonił.

Ledwieś piosnkę zaczęła, jużem łzy uronił,
Twój głos wnikał do serca i za duszę chwytał;
Zdało się, że ją anioł po imieniu witał
I w zegar niebios chwilę zbawienia zadzwonił.

O luba! niech twe oczy przyznać się nie boją,
Jeśli cię mym spojrzeniem, jeśli głosem wzruszę;
Nie dbam, że los i ludzie przeciwko nam stoją,

Że uciekać i kochać bez nadziei muszę.
Niech ślub ziemski innego darzy ręką twoją,
Tylko wyznaj, że Bóg mi poślubił twą duszę.



CHUYỆN TRÒ

Em thân yêu! 
Biết lấy gì để trò chuyện với em
Biết lấy gì để cùng em chia sẻ
Hòa nhập hồn vào nhau ta không thể
Còn chia hồn tôi thành những lời suông
Mà trước khi chúng chạm đến hồn em
Đã tắt trên môi, tan trong không khí?

“Anh yêu em!” – một trăm lần như thế
Làm em buồn, em tức giận mà thôi
Rằng không biết cách thể hiện tình tôi
Không biết nói ra lời, không thể hát
Như người hôn mê, tôi không đủ sức
Để chứng minh máu nóng chảy trong người. 

Tôi lãng phí đôi môi này vô ích
Và bây giờ muốn kết với môi em
Để cho con tim rộn ràng lại đập
Với những thở dài, với những nụ hôn
Và trò chuyện suốt giờ, ngày, tháng, năm
Đến khải huyền, thế giới này kết thúc. 
1825

Rozmowa

Kochanko moja! na co nam rozmowa?
Czemu, chcąc z tobą uczucia podzielać,
Nie mogę duszy prosto w duszę przelać?
Za co ją trzeba rozdrabiać na słowa,
Które nim słuch twój i serce dościgną,
W ustach wietrzeją, na powietrzu stygną?

 Kocham, ach! kocham, po sto razy wołam:
A ty się smucisz i zaczynasz gniewać,
Że ja kochania mojego nie zdołam
Dosyć wymówić, wyrazić, wyśpiewać;
I jak w letargu, nie widzę sposobu
Wydać znak życia, bym uniknął grobu.

 Strudziłem usta daremnem użyciem:
Teraz je z twemi chcę stopić ustami,
I chcę rozmawiać tylko serca biciem,
I westchnieniami i całowaniami,
I tak rozmawiać, godziny, dni, lata,
Do końca świata i po końcu świata.



GIÁ MÀ ANH

Giá mà anh thành dải ruy băng vàng
Để trên vầng trán của em tỏa sáng
Giá mà anh trở thành chiếc áo choàng
Dù mỏng manh vẫn đè lên ngực ấm. 

Để anh sẽ lay động trái tim em
Có đáp lại trái tim này, hay chẳng
Để ngực em anh nâng lên hạ xuống
Và nghe theo từng hơi thở của em.  

Giá mà anh được trở thành cơn gió
Yêu cuộc đời, bay lượn giữa trời xanh
Trên con đường nhiều bông hoa thắm đỏ
Sẽ ve vuốt hoa hồng và vuốt ve em. 

Có thể Chúa Trời trong ngày phán xét
Sẽ đánh giá cao công việc của anh:
Ngài ban cho anh một niềm hạnh phúc –
Sẽ biến anh trở thành trái tim em. 

Do

Gdybym się zmienił w wstęgę złocistą,
Co na twem czole połyska,
Gdybym się zmienił w tę szatę mglistą,
Co piersi twoje przyciska —

 Drżeniabym serca twojego badał,
Czy nie odpowie mojemu,
Z twojem się łonem wznosił i spadał,
Posłuszny tchnieniu twojemu.

 Gdybym się zmienił w wietrzyk skrzydlaty,
Co dysze w pogodnem niebie,
W drodzebym mijał najświeższe kwiaty,
A pieścił różę i ciebie.

 Może nakoniec Bóg litościwy
Pracęby moją ocenił,
Może nakoniec byłbym szczęśliwy,
I w twe się serce zamienił.



GHI VÀO ALBUM

Mình buông tay về những phía khác nhau
Suy nghĩ của ta trong đời cũng khác
Theo hướng khác nhau nhìn từng đôi mắt
Biết làm sao mình đến được với nhau?

Như những ngôi sao dáng vẻ khác nhau
Và mỗi ngôi lại trôi về một phía
Trong thế giới đầy đớn đau khổ ải
Chẳng yên bình, ta biết phải làm sao.

Kẻ lưu vong muôn thuở có điều chi
Tốt hay xấu – chẳng biết gì đang đợi
Sự ghê tởm làm cho ta gần lại
Gắn kết yêu thương bằng những hận thù.

Do*, w sztambuch

Ku różnym stronom ściągnęliśmny dłonie,
W różnych mieszkały światach nasze myśli,
Oczy ku różnej wyglądały stronie,
Jakże, o luba, ku sobieśmy przyszli?

 Jak gwiazdy, równe wielkością i kształtem,
Do przeciwnego wyrzucone biegu,
Kiedy je niebo jednostajnym gwałtem
Wiecznie odtrąca od każdego brzegu,

 Wieczni wygnańcy z powszechnego świata,
Jestże to dla nich szkodą czy korzyścią,
Że wstręt ku wszystkim znowu je pobrata
I że się muszą kochać... nienawiścią?...



GHI VÀO ALBUM Z

Khi em buồn nhìn thấy bao con sóng
Ném chiếc thuyền con, con sóng bạc đầu
Đừng để trái tim thiên thần lo lắng
Vì những buồn lo, tuyệt vọng, khổ đau
Trong giờ phút, khi mà con sóng lớn
Giật chiếc thuyền con ra khỏi con tàu. 

Khi tất cả mọi điều trên sóng nước
Có thể xảy ra thì lo lắng làm chi
Thà cứ đưa mắt nhìn về phía trước
Để tìm cách chống lại những hiểm nguy
Còn hơn là em cứ đứng trên bờ
Nhìn ra biển đếm những gì mất mát.

Żeglarz (W imionniku Z)

Ilekroć ujrzysz, jak zhukana fala
Po głębiach barką przerzuca tułaczą:
Niech się anielskie serce nie użala
Nad płynącego trwogą i rozpaczą!
Tę barkę wicher odbił od okrętu,
Na którym żeglarz swe nadzieje złożył;

Jeżeli wszystko jest pastwą odmętu,
Czegóżby płakał, o coby się trwożył?
Lepiej mu pośród żywiołów bezrządu
Walczyć co chwila z nowymi przygody,
Niż gdyby wybrnął i z cichego lądu
Patrzył na morze i liczył swe szkody.