Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

Thơ tình Yevgeny Yevtushenko


LUÔN LUÔN TÌM MỘT BÀN TAY PHỤ NỮ

Luôn luôn tìm một bàn tay phụ nữ
Một bàn tay rất mát mẻ, nhẹ nhàng
Một chút yêu yêu, một chút thương thương
Như một người em bàn tay ấp ủ.

Luôn luôn tìm một bờ vai phụ nữ
Để trong bờ vai hơi thở nóng bừng
Để khi mái đầu phóng đãng ấp lên
Sẽ tin tưởng trao bờ vai giấc ngủ.

Luôn luôn tìm một đôi mắt phụ nữ
Để làm tiêu tan đau khổ của mình
Nếu không tất cả, thì dù một phần
Những con mắt sẽ nhìn ra đau khổ.

Nhưng cũng có một bàn tay phụ nữ
Một bàn tay đặc biệt, rất ngọt ngào
Khi lên vầng trán mệt mỏi chạm vào
Giống như vĩnh hằng, giống như phận số.

Nhưng cũng có một bờ vai phụ nữ
Một bờ vai không hiểu tại vì đâu
Không cho một đêm, không cho dài lâu
Và điều này từ lâu anh đã rõ.

Nhưng cũng có một đôi mắt phụ nữ
Một đôi mắt luôn nhìn ngó rất buồn
Và chuyện này cho đến ngày cuối cùng
Con mắt của tình, của lương tâm anh đó.

Còn anh sống trái ngược với đời anh
Và ít ỏi một bàn tay phụ nữ
Một bờ vai, một đôi mắt buồn bã
Mà trong đời, anh phụ bạc bao lần!

Thì sự trừng phạt sẽ đến với anh
“Kẻ phụ tình!” – mưa vào anh sẽ đập
“Kẻ phụ tình!” – cành lá quất lên mặt
“Kẻ phụ tình!” – tiếng vọng giữa rừng xanh.

Anh trằn trọc, anh đau khổ, anh buồn
Và tất cả cho mình không tha thứ.
Nhưng chỉ bàn tay của người phụ nữ
Tha thứ cho anh, dù có phật lòng.

Và chỉ bờ vai mòn mỏi chờ trông
Tha thứ bây giờ và còn tha thứ nữa
Và chỉ có đôi mắt ai buồn bã
Tha thứ cho anh cả những thứ không nên…
1961

Всегда найдется женская рука

Всегда найдется женская рука,
чтобы она, прохладна и легка,
жалея и немножечко любя,
как брата, успокоила тебя.

Всегда найдется женское плечо,
чтобы в него дышал ты горячо,
припав к нему беспутной головой,
ему доверив сон мятежный свой.

Всегда найдутся женские глаза,
чтобы они, всю боль твою глуша,
а если и не всю, то часть ее,
увидели страдание твое.

Но есть такая женская рука,
которая особенно сладка,
когда она измученного лба
касается, как вечность и судьба.

Но есть такое женское плечо,
которое неведомо за что
не на ночь, а навек тебе дано,
и это понял ты давным-давно.

Но есть такие женские глаза,
которые глядят всегда грустя,
и это до последних твоих дней
глаза любви и совести твоей.

А ты живешь себе же вопреки,
и мало тебе только той руки,
того плеча и тех печальных глаз...
Ты предавал их в жизни столько раз!

И вот оно - возмездье - настает.
"Предатель!"- дождь тебя наотмашь бьет.
"Предатель!"- ветки хлещут по лицу.
"Предатель!"- эхо слышится в лесу.

Ты мечешься, ты мучишься, грустишь.
Ты сам себе все это не простишь.
И только та прозрачная рука
простит, хотя обида и тяжка,

и только то усталое плечо
простит сейчас, да и простит еще,
и только те печальные глаза
простят все то, чего прощать нельзя...


TƯỞNG NHỚ AKHMATOVA

Akhmatova là người của hai thời
Có vẻ như về nàng không nên khóc
Nàng đã sống, có vẻ không tin được
Lại không thể tin nàng đã qua đời.

Nàng ra đi, giống như một bài ca
Đi vào sâu thẳm của khu vườn tối
Nàng ra đi, có vẻ như mãi mãi
Từ Leningrad trở về Pê-téc-bua.

Nàng gắn chặt với cả hai thời gian
Giữa tâm điểm của sương và của bóng
Nếu Puskin là mặt trời, thì nàng
Trong thơ ca – sẽ mãi là đêm trắng.

Trên cái chết, bất tử, ngoài tất cả
Nàng đã nằm – có lẽ nói thế này:
Không phải trong hiện tại, mà trên nó
Nàng đã nằm giữa quá khứ, tương lai.

Và quá khứ bên quan tài im lặng
Không như của người sống hợp ý trời.
Bờm tóc bạc sáng sủa và kiêu hãnh
Lấp lánh từ những chíêc mũ lỗi thời.

Vâng, thời gian làm đổi thay đường nét
Những con người thời đó ở nước Nga
Nhưng đôi mắt họ – ánh sáng nhân từ –
Chẳng gió xoáy hay sương nào dập tắt.

Tương lai yếu đuối trên những đôi vai
Những cậu bé đi đến trường đã đốt
Ngọn lửa học trò trong từng đôi mắt
Những cuốn vở con nắm chặt trong tay.

Và những cô bé trong cặp của mình
Có lẽ mang nhật ký và danh mục
Họ vẫn thế – thiêng liêng và hạnh phúc
Vẫn ngây thơ như ngày ấy nữ sinh.

Sự sụp đổ toàn cầu, xin đừng để
Mất đi mối liên hệ của thời gian
Vì không thể hai nước Nga – điều giản đơn
Cũng như hai Akhmatova, không thể.

Памяти Ахматовой

Ахматова двувременной была. 
О ней и плакать как-то не пристало. 
Не верилось, когда она жила, 
не верилось, когда ее не стало.

Она ушла, как будто бы напев 
уходит в глубь темнеющего сада. 
Она ушла, как будто бы навек 
вернулась в Петербург из Ленинграда.

Она связала эти времена 
в туманно-теневое средоточье, 
и если Пушкин — солнце, 
то она в поэзии пребудет белой ночью.

Над смертью и бессмертьем, вне всего, 
она лежала, как бы между прочим, 
не в настоящем, а поверх него, 
лежала между будущим и прошлым.

И прошлое у гроба тихо шло 
не вереницей дам богоугодных. 
Седые челки гордо и светло 
мерцали из-под шляпок старомодных.

Да, изменило время их черты, 
красавиц той, когдатошней России, 
но их глаза — лампады доброты — 
ни крутоверть, ни мгла не загасили.

Шло будущее, слабое в плечах. 
Шли мальчики. Они себя сжигали 
пожаром гимназическим в очах 
и в кулаках тетрадочки сжимали.

И девочки в портфельчиках своих 
несли, наверно, дневники и списки. 
Все те же — из Блаженных и святых — 
наивные российские курсистки.

И ты, распад всемирный, не убий 
ту связь времен, — она еще поможет. 
Ведь просто быть не может двух Россий, 
как быть и двух Ахматовых не может.


NHỮNG CON NGƯỜI

Người tẻ nhạt trên đời không hề có
Số phận như lịch sử những hành tinh.
Mỗi hành tinh có đặc điểm của mình
Và chẳng có hành tinh nào giống nó.

Nếu như ai đấy sống đời lặng lẽ
Với vẻ ít ai để ý của mình
Thì người này với những kẻ xung quanh
Hay ở cái không có gì đáng nhớ.

Mỗi con người bí ẩn và riêng lẻ.
Có trong đời một khoảnh khắc tuyệt vời.
Có một giờ phút khủng khiếp trong đời.
Nhưng chúng ta đều không ai biết rõ.

Và nếu con người trần gian từ giã
Bông tuyết đầu của người ấy đi theo
Trận đánh đầu tiên và nụ hôn đầu…
Con người này mang theo mình tất cả.

Chỉ còn lại những cây cầu, sách vở
Những máy móc và cả những bức tranh
Có nhiều thứ phải bỏ lại sau mình
Nhưng vẫn mất đi một điều gì đó.

Luật trò chơi không tiếc thương như thế
Không phải người, mà thế giới mất đi.
Ta nhớ người trần lầm lỗi thế kia
Nhưng sâu xa ta biết gì về họ?

Và cả bạn bè, cả anh em nữa?
Ta biết về người duy nhất của mình?
Và ngay người cha ruột thịt của mình
Ta biết hết, mà không hề biết rõ.

Người ra đi… không còn quay về nữa
Không hồi sinh những thế giới bí huyền.
Cứ mỗi lần tôi lại muốn kêu lên
Vì cuộc đời chỉ đi về một phía…

Людей неинтересных в мире нет

Людей неинтересных в мире нет.
Их судьбы — как истории планет.
У каждой все особое, свое,
и нет планет, похожих на нее.

А если кто-то незаметно жил
и с этой незаметностью дружил,
он интересен был среди людей
самой неинтересностью своей.

У каждого — свой тайный личный мир.
Есть в мире этом самый лучший миг.
Есть в мире этом самый страшный час,
но это все неведомо для нас.

И если умирает человек,
с ним умирает первый его снег,
и первый поцелуй, и первый бой...
Все это забирает он с собой.

Да, остаются книги и мосты,
машины и художников холсты,
да, многому остаться суждено,
но что-то ведь уходит все равно!

Таков закон безжалостной игры.
Не люди умирают, а миры.
Людей мы помним, грешных и земных.
А что мы знали, в сущности, о них?

Что знаем мы про братьев, про друзей,
что знаем о единственной своей?
И про отца родного своего
мы, зная все, не знаем ничего.

Уходят люди... Их не возвратить.
Их тайные миры не возродить.
И каждый раз мне хочется опять
от этой невозвратности кричать.


ANH ĐÃ HẾT YÊU EM

Anh đã hết yêu em… một kết cục tầm thường
Vô vị như cuộc đời, vô vị như cái chết
Anh làm cho đứt dây khúc tình cay nghiệt
Vờ vĩnh để làm chi – một nửa cây đàn!

Chỉ con chó không hiểu – nó què quặt, xù lông
Em và anh cứ vẽ vời để làm chi không biết.
Anh kéo về mình – nó kêu bên cửa nhà em thút thít
Còn em thả nó ra – nó rên ừ ừ bên cửa nhà anh.

Có lẽ sẽ cuồng điên rồi sẽ chạy loăng quăng
Con chó đa cảm đa sầu, mi quả là trẻ lắm
Nhưng ta không cho phép mình làm người đa cảm
Hễ tiếp tục đớn đau – sẽ kéo đến cuối cùng.

Làm người đa cảm không phải yếu hèn, mà tội lỗi
Khi lại vẫn mềm lòng thì lại vẫn hứa suông
Rên ư ử, khừ khừ rồi lại hình dung
Với tên gọi dại khờ rằng “Tình cứu rỗi”.

Cứu tình yêu là trong những ngày đầu tiên, với
“Không bao giờ!” của nhiệt huyết, “mãi mãi!” của trẻ con.
“Không cần hứa!” – tiếng những con tàu vang lên
“Không cần hứa!” – tiếng những dây diện thoại.

Cành chớm gãy và u ám giữa trời xanh
Cảnh báo cho ta, những con người ít học
Rằng lạc quan tràn đầy là do không hiểu biết
Rằng vô vọng mới là điều hy vọng đáng tin.

Nhân đạo hơn là làm người tỉnh táo và cân
Và hỏi kỹ trước khi đeo vào – đó là qui luật
Đừng hứa gì trời xanh, nhưng hãy trao dù chút đất
Không đến ngày xuống mồ, nhưng dù khoảnh khắc rất cần.

Nhân đạo hơn là đừng nói “em yêu…” khi yêu anh
Kẻo rồi thật nặng nề, từ những bờ môi ấy
Nghe những lời trống không, buồn cười, giả dối
Và nghe dối gian như cả thế giới hoang tàn.

Không cần hứa… Tình – là không thể thi hành
Gian dối để làm chi, cũng giống như vương miện
Ảo ảnh là hay, một khi ảo ảnh chưa tan biến
Nhân đạo hơn là đừng yêu, kẻo sau đấy – cuối cùng.

Con chó kêu rên đến rối loạn tâm thần
Đập cửa nhà anh, rồi bên cửa nhà em ư ử.
Vì đã hết yêu, anh không hề xin em tha thứ
Chỉ tha thứ cho anh vì một thuở đã yêu em.

Я разлюбил тебя... Банальная развязка

Я разлюбил тебя... Банальная развязка.
Банальная, как жизнь, банальная, как смерть.
Я оборву струну жестокого романса,
гитару пополам — к чему ломать комедь!

Лишь не понять щенку — лохматому уродцу,
чего ты так мудришь, чего я так мудрю.
Его впущу к себе — он в дверь твою скребется,
а впустишь ты его — скребется в дверь мою.

Пожалуй, можно так с ума сойти, метаясь...
Сентиментальный пес, ты попросту юнец.
Но не позволю я себе сентиментальность.
Как пытку продолжать — затягивать конец.

Сентиментальным быть не слабость — преступленье,
когда размякнешь вновь, наобещаешь вновь
и пробуешь, кряхтя, поставить представленье
с названием тупым «Спасенная любовь».

Спасать любовь пора уже в самом начале
от пылких «никогда!», от детских «навсегда!».
«Не надо обещать!» — нам поезда кричали,
«Не надо обещать!» — мычали провода.

Надломленность ветвей и неба задымленность
предупреждали нас, зазнавшихся невежд,
что полный оптимизм — есть неосведомленность,
что без больших надежд — надежней для надежд.

Гуманней трезвым быть и трезво взвесить звенья,
допрежь чем их надеть,— таков закон вериг.
Не обещать небес, но дать хотя бы землю.
До гроба не сулить, но дать хотя бы миг.

Гуманней не твердить «люблю...», когда ты любишь.
Как тяжело потом из этих самых уст
услышать звук пустой, вранье, насмешку, грубость,
и ложно полный мир предстанет ложно пуст.

Не надо обещать... Любовь — неисполнимость.
Зачем же под обман вести, как под венец?
Виденье хорошо, пока не испарилось.
Гуманней не любить, когда потом — конец.

Скулит наш бедный пес до умопомраченья,
то лапой в дверь мою, то в дверь твою скребя.
За то, что разлюбил, я не прошу прощенья.
Прости меня за то, что я любил тебя.


EM TO LỚN TRONG TÌNH

Em to lớn trong tình.
Em gan dạ.
Còn anh rụt rè sau mỗi bước chân.
Điều tồi tệ cho em anh chẳng làm
còn tốt đẹp chắc gì anh có thể.
Tất cả như trong rừng
anh cứ ngỡ
em dẫn anh đi không theo một lối mòn.
Trong hoa cỏ ngập đến tận thắt lưng.
Anh không hiểu hoa có tên gì vậy.
Không dùng được những thói quen ngày ấy.
Anh không biết rằng anh phải làm sao.
Em mỏi mệt.
Cần bàn tay trao nhau.
Và ngã vào trong lòng anh khi đó.
“Anh có thấy,
trời hôm nay xanh thế?
Và có nghe
chim hót ở trong rừng?
Nào anh yêu?
Nào anh?
Hãy bế em!”
Bế em đi đâu anh không biết?…
1953

Ты большая в любви

Ты большая в любви.
                 Ты смелая.
Я - робею на каждом шагу.
Я плохого тебе не сделаю,
а хорошее вряд ли смогу.
Все мне кажется,
              будто бы по лесу
без тропинки ведешь меня ты.
Мы в дремучих цветах до пояса.
Не пойму я -
            что за цветы.
Не годятся все прежние навыки.
Я не знаю,
        что делать и как.
Ты устала.
         Ты просишься на руки.
Ты уже у меня на руках.
"Видишь,
       небо какое синее?
Слышишь,
      птицы какие в лесу?
Ну так что же ты?
                 Ну?
                    Неси меня!
А куда я тебя понесу?..
  

KHI GƯƠNG MẶT CỦA EM XUẤT HIỆN

Khi gương mặt của em xuất hiện
trước cuộc đời rất nhàu nát của anh
khi đó, đầu tiên anh chỉ nghĩ rằng
những gì anh có, tất cả đều thiếu thốn.

Nhưng những cánh rừng, dòng sông và biển
gương mặt em đặc biệt chiếu sáng lên
màu sắc cuộc đời gương mặt hiến dâng
chỉ riêng anh thì không hề dâng hiến.

Anh sợ lắm, lúc này anh sợ lắm
sợ vầng đông không đợi sẽ tận cùng
tận cùng mở đầu, nước mắt, hân hoan
nhưng nỗi sợ không thể nào kìm nén.

Anh nhớ lại – chính cái điều khiếp đảm
là tình yêu. Và nỗi sợ nâng niu
dù anh không biết rằng phải chiều theo
và tình yêu canh chừng không cẩn thận.

Bằng nỗi sợ anh cầm lên chiếc nhẫn.
Khoảnh khắc này – anh biết – ngắn ngủi thôi
với anh biến mất màu sắc cuộc đời
khi gương mặt em trước anh xuất hiện…
1960

Когда взошло твое лицо

Когда взошло твое лицо
над жизнью скомканной моею,
вначале понял я лишь то,
как скудно все, что я имею.

Но рощи, реки и моря
оно особо осветило
и в краски мира посвятило
непосвященного меня.

Я так боюсь, я так боюсь
конца нежданного восхода,
конца открытий, слез, восторга,
но с этим страхом не борюсь.

Я помню - этот страх
и есть любовь. Его лелею,
хотя лелеять не умею,
своей любви небрежный страж.

Я страхом этим взят в кольцо.
Мгновенья эти - знаю - кратки,
и для меня исчезнут краски,
когда зайдет твое лицо...


LỜI CẦU KHẨN

Đêm mùa xuân em hãy nghĩ về anh
Và đêm mùa hè hãy nghĩ về anh
Đêm mùa thu em hãy nghĩ về anh
Và đêm mùa đông em hãy nghĩ về anh.
Dù anh không ở cùng em, mà đâu đó
Người xa xôi, như người trong xứ lạ -
Trên tấm ga trải giường dài và mát mẻ
Hãy nghỉ ngơi, như giữa biển trên lưng
Thả mình như con sóng chậm, dịu êm
Chỉ hai người, với anh, như biển cả.

Anh không muốn em suy nghĩ ban ngày
Cứ để ngày tất cả đem lộn ngược
Xông bằng khói và rượu vang đem rót
Bắt nghĩ về một điều khác hoàn toàn.
Ban ngày cứ nghĩ điều gì mong ước
Còn ban đêm – em chỉ nghĩ về anh.

Em nghe qua tiếng con tàu vang lên
Qua ngọn gió, tan từng mảnh mây đen
Anh – người đã rơi vào vòng tù hãm
Muốn trong phòng, nơi hẹp những bức tường
Em nheo mắt vì hạnh phúc, đau buồn
Ép bàn tay vào thái dương đau đớn.

Anh van em – trong tận cùng tĩnh lặng
Hay dưới cơn mưa ầm ĩ trên trời
Hay dưới tuyết, trên cửa sổ sáng ngời
Đã trong mơ và chưa hề trong mộng –
Đêm mùa xuân em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa hè em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa thu em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa đông em hãy nghĩ về anh.

Весенней ночью думай обо мне

Весенней ночью думай обо мне

и летней ночью думай обо мне,
осенней ночью думай обо мне
и зимней ночью думай обо мне.
Пусть я не там с тобой, а где-то вне,
такой далекий, как в другой стране,—
на длинной и прохладной простыне
покойся, словно в море на спине,
отдавшись мягкой медленной волне,
со мной, как с морем, вся наедине.

Я не хочу, чтоб думала ты днем.
Пусть день перевернет все кверху дном,
окурит дымом и зальет вином,
заставит думать о совсем ином.
О чем захочешь, можешь думать днем,
а ночью — только обо мне одном.

Услышь сквозь паровозные свистки,
сквозь ветер, тучи рвущий на куски,
как надо мне, попавшему в тиски,
чтоб в комнате, где стены так узки,
ты жмурилась от счастья и тоски,
до боли сжав ладонями виски.

Молю тебя — в тишайшей тишине,
или под дождь, шумящий в вышине,
или под снег, мерцающий в окне,
уже во сне и все же не во сне —
весенней ночью думай обо мне
и летней ночью думай обо мне,
осенней ночью думай обо мне
и зимней ночью думай обо мне. 



KHÔNG CẦN MỘT NỬA

Không, những thứ gì một nửa tôi không cần!
Cho tôi cả bầu trời! Đủ đầy mặt đất!
Cả sông, biển, vẹn toàn bao dòng thác
Tôi không bằng lòng những thứ chia phân.

Không, cuộc sống đừng đem cho tôi từng phần.
Tất cả vẹn toàn! Điều này tôi đủ sức
Tôi không muốn một nửa niềm hạnh phúc
Mà cũng không một nửa nỗi đau thương.

Có chăng chỉ là nửa chiếc gối êm
Nơi em áp má vào một cách cẩn trọng
Và chiếc nhẫn trên tay em lấp lánh
Ngôi sao mờ, ngôi sao rụng trong đêm.

Нет, мне ни в чем не надо половины


Нет, мне ни в чем не надо половины!

Мне – дай все небо! Землю всю положь!
Моря и реки, горные лавины
Мои – не соглашаюсь на дележ!

Нет, жизнь, меня ты не заластишь частью.
Все полностью! Мне это по плечу!
Я не хочу ни половины счастья,
Ни половины горя не хочу!

Хочу лишь половину той подушки,
Где, бережно прижатое к щеке,
Беспомощной звездой, звездой падучей
Кольцо мерцает на твоей руке.


EM ĐỪNG VỘI

Em hãy vội vàng, vội vàng đến với anh
Nếu anh một mình, nếu anh khó ở.
Nếu anh tựa trong giấc mơ đáng sợ
Tai họa rập rình trên cửa sổ anh.
Em hãy vội vàng khi người xúc phạm
Em hãy vội khi anh cần người bạn
Em hãy vội khi anh buồn lặng im
Thì em nhé, em nhé, hãy vội vàng!

Và đừng vội, đừng vội, một khi mà
Mình hai đứa, tai họa ở rất xa
Những chiếc lá, dòng nước đang nói “có”
Và những ngôi sao, con tàu, ánh lửa…
Em đừng vội, khi mắt trong mắt nhau
Em đừng vội, khi chẳng vội đi đâu
Hãy lắng nghe đêm, hãy lặng ngừng, đừng vội
Em đừng vội, khi chẳng vội đi đâu…

Не спеши


Ты спеши, ты спеши ко мне

Если я один, если трудно мне.
Если я, словно в страшном сне,
Если тень беды в моем окне.
Ты спеши, когда обидят вдруг,
Ты спеши, когда мне нужен друг,
Ты спеши, когда грущу в тиши,
Ты спеши, ты спеши!

Не спеши, не спеши, когда
Мы с тобой вдвоем и вдали беда,
Скажут "да" листья и вода,
Звезды, и огни, и поезда...
Не спеши, когда глаза в глаза,
Не спеши, когда спешить нельзя,
Слушай ночь, замри и не спеши,
Не спеши, не спеши...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét