Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

Thơ tình Mikhail Lermontov


HÃY Ở LẠI CÙNG ANH 

Hãy ở lại cùng anh như lần trước 
Hãy nói với anh, dù chỉ một câu 
Để hồn anh trong những lời tìm được 
Điều tâm hồn mong đợi đã từ lâu. 

Nếu những tia hi vọng còn gìn giữ 
Trong tim này – chắc chúng sẽ hồi sinh 
Nếu còn có thể tuôn ra dòng lệ 
Trong mắt này – chắc chúng sẽ trào lên. 

Có những lời mà không thanh minh nổi 
Vì điều này, chúng quyền lực với anh 
Những lời này làm cho anh sống lại 
Nhưng không làm cho kẻ khác hồi sinh. 

Em hãy tin rằng những lời buốt giá 
Chúng chỉ làm cho vấy bẩn bờ môi 
Như những cánh hoa của bông hoa nhỏ 
Chúng giống như nọc rắn độc giết người!
1831

Будь со мною, как прежде бывала

Будь со мною, как прежде бывала;
   О, скажи мне хоть слово одно;
Чтоб душа в этом слове сыскала,
   Что хотелось ей слышать давно;

Если искра надежды хранится
   В моем сердце - она оживет;
Если может слеза появиться
   В очах - то она упадет.


Есть слова - объяснить не могу я,
   Отчего у них власть надо мной;
Их услышав, опять оживу я,
   Но от них не воскреснет другой;

О, поверь мне, холодное слово
   Уста оскверняет твои,
Как листки у цветка молодого
   Ядовитое жало змеи!


EM CỨ GỌI GIẤC MƠ LÀ HY VỌNG 

Em cứ gọi giấc mơ là hy vọng 
Điều dối gian là chân lý cho rồi 
Em chớ tin lời cam đoan, ca tụng 
Nhưng hãy tin, hãy tin ở tình tôi. 

Tình như thế không tin làm sao nổi 
Ánh mắt tôi không giấu một điều gì 
Gian dối với em cũng là tội lỗi
Em xứng thiên thần với điều ấy quá đi. 
1831

Зови надежду сновиденьем

Зови надежду сновиденьем,
Неправду - истиной зови,
Не верь хвалам и увереньям,
Но верь, о, верь моей любви!

Такой любви нельзя не верить,
Мой взор не скроет ничего;
С тобою грех мне лицемерить,
Ты слишком ангел для того.


HÌNH BÓNG 

Hình bóng của em có ở trong tôi
Tôi yêu nó như sắc màu buồn thảm
Hình bóng lơ lửng treo giữa ngực này
Như con tim, hình bóng nầy u ám.

Không ánh lửa, không đời trong đôi mắt
Nhưng với tôi gần gũi đến muôn đời
Bóng của em, nhưng mà tôi thân thiết
Như bóng hình, như bóng của niềm vui.
1831


Силуэт

Есть у меня твой силуэт,
Мне мил его печальный цвет;
Висит он на груди моей,
И мрачен он, как сердце в ней.

В глазах нет жизни и огня,
Зато он вечно близ меня;
Он тень твоя, но я люблю,
Как тень блаженства, тень твою.



NÀNG XINH ĐẸP 

Nàng xinh đẹp tựa hồ như giấc mộng 
Của bé con dưới ánh sáng phương Nam 
Ai cắt nghĩa rằng đẹp nghĩa là nàng 
Với ngực cao hay thân hình duyên dáng. 

Hay đôi mắt mở to? – nhưng tôi tin 
Tất cả đấy không gọi là sắc đẹp 
Miệng không nói lời làm sao yêu được 
Chẳng mùi hoa – không ánh lửa mắt nhìn!

Nhưng trời ơi, tôi xin được thề nguyền 
Nàng rất đẹp!.. tôi cháy lên, run rẩy 
Khi mái tóc xõa trên vầng trán ấy 
Tơ nhung vàng tôi khẽ chạm tay lên. 

Và tôi sẵn sàng quì xuống chân nàng 
Trao thiên đàng, cuộc đời, trao hết tất 
Chỉ để được nhận về tôi ánh mắt
Là thuốc độc – là khoái lạc hân hoan! 
1832


Она была прекрасна, как мечта

Она была прекрасна, как мечта
Ребенка под светилом южных стран.
Кто объяснит, что значит красота:
Грудь полная, иль стройный гибкий стан,

Или большие очи? Но порой
Всё это не зовем мы красотой:
Уста без слов — любить никто не мог,
Взор без огня — без запаха цветок!

О небо, я клянусь, она была
Прекрасна!.. Я горел, я трепетал,
Когда кудрей, сбегающих с чела,
Шелк золотой рукой своей встречал.

Я был готов упасть к ногам ее,
Отдать ей волю, жизнь, и рай, и всё,
Чтоб получить один, один лишь взгляд
Из тех, которых всё блаженство — яд!


CÁNH BUỒM 

Một cánh buồm cô đơn đang dần trắng 
Trong màn sương của nước biển ngời xanh 
Buồm đi tìm chi ở nơi xa vắng? 
Và tại vì sao từ giã quê mình?… 

Những ngọn sóng chơi đùa – cơn gió thét 
Và cột buồm đang cót két, uốn cong… 
Than ôi – buồm chẳng đi tìm hạnh phúc 
Và cũng không chạy trốn nỗi vui mừng! 

Phía dưới buồm, nước màu xanh sáng tỏ 
Phía trên buồm ánh nắng có màu vàng… 
Còn buồm nổi loạn, cầu xin bão tố 
Tựa hồ trong bão tố có bình yên!
1832


Парус

Белеет парус одинокой
В тумане моря голубом!..
Что ищет он в стране далекой?
Что кинул он в краю родном?..

Играют волны — ветер свищет,
И мачта гнется и скрыпит...
Увы! он счастия не ищет,
И не от счастия бежит!

Под ним струя светлей лазури,
Над ним луч солнца золотой...
А он, мятежный, просит бури,
Как будто в бурях есть покой!



NẾU HAI TA

Nếu hai ta không từng là trẻ nhỏ
Nếu không yêu nhau mù quáng cuồng điên
Không từng chia ly, không từng gặp gỡ
Thì ta đã không biết đến đau buồn.
1832

Had we never loved so kindly

Если б мы не дети были,
Если б слепо не любили,
Не встречались, не прощались,
Мы с страданьем бы не знались.
_______________
*Bài thơ này thực chất là bản dịch một khổ thơ làm đề từ của tác phẩm Nàng dâu của Abydos của Byron. Khổ thơ làm đề từ này lấy từ bài thơ Ae fond kiss (Một nụ hôn dịu dàng) của Robert Burns, nhưng mà Lermontov nhầm chữ kindly (thân ái, chân tình) của tiếng Anh với tiếng Đức nên đã dịch thành trẻ nhỏ. Khổ thơ này như sau:

Had we never loved so kindly,
Had we never loved so blindly,
Never met or never parted,
We had ne'er been broken-hearted.

(Nếu ta đừng yêu bằng tấm chân tình
Nếu ta đừng yêu mù quáng, cuồng điên
Nếu đừng chia ly, nếu đừng gặp gỡ
Thì tim ta chẳng bao giờ tan vỡ).


Bài thơ Ae fond kiss (Một nụ hôn dịu dàng) đầy đủ cũng đã có bản dịch ra tiếng Việt.


HÃY BỎ LẠI 

Hãy bỏ lại những lo âu vô ích
Đừng khơi lên quá khứ để làm gì
Em chẳng tìm ra trong đó điều chi
Để mà yêu tôi càng thêm mãnh liệt.

Em yêu tôi – tôi tin – và thỏa mãn
Còn tôi là ai – điều đó không cần
Thật đau đớn nếu thổ lộ cùng em
Rằng đời tôi tối tăm và trống rỗng.

Không nỡ giết niềm hạnh phúc thánh thiện
Của tâm hồn em và chẳng nói rằng
Tôi không xứng với số phận của mình
Rằng với tôi – chẳng có gì quí mến.

Rằng tất cả những gì xưa trân trọng
Nay trở thành thuốc độc giết con tim
Con tim này với đau khổ thân thương
Như của cải, như người anh, người bạn.

Em thốt ra lời thân thương trìu mến
Ban ơn và đòi hỏi cuộc đời tôi
Nhưng chớ đòi gì quá khứ em ơi
Nỗi đau của mình tôi không đem bán.
1832

К *** (Оставь напрасные заботы...)

Оставь напрасные заботы,
Не обнажай минувших дней;
В них не откроешь ничего ты,
За что б меня любить сильней!

Ты любишь - верю - и довольно;
Кого - ты ведать не должна,
Тебе открыть мне было б больно,
Как жизнь моя пуста, черна.

Не погублю святое счастье
Такой души и не скажу,
Что недостоин я участья,
Что сам ничем не дорожу;

Что всё, чем сердце дорожило,
Теперь для сердца стало яд,
Что для него страданье мило,
Как спутник, собственность иль брат,

Промолвив ласковое слово,
В награду требуй жизнь мою;
Но, друг мой, не проси былого,
Я мук своих не продаю.


TA GẮN KẾT BẰNG SỐ PHẬN NGẪU NHIÊN

Ta gắn kết bằng số phận ngẫu nhiên
Ta tìm thấy mình ở trong người khác
Để tâm hồn hòa nhập với tâm hồn
Dù bước đường đời kẻ sau người trước.

Như dòng nước mùa xuân đang soi bóng
Vòm trời xa xôi thăm thẳm màu xanh
Để vòm trời tỏa sáng trên sóng lặng
Và rung rinh với ngọn sóng dập dềnh.

Xin em hãy là trời cao, là bạn
Của những phong ba bão táp đời anh
Mặc giữa hai ta sấm chớp đì đùng
Anh sinh ra để sống cùng với chúng.

Anh sinh ra để loài người chứng kiến
Phút khải hoàn hay cái chết của anh
Nhưng với em – với tia sáng soi đường
Là lời khen hoặc tiếng cười kiêu hãnh!

Tâm hồn của họ không sao đạt đến
Không thể nào yêu mến nổi nhà thơ
Và không thể nào hiểu ra sầu muộn
Những niềm hân hoan không thể sẻ chia.
1832

К ... (Мы случайно сведены судьбою

Мы случайно сведены судьбою,
Мы себя нашли один в другом,
И душа сдружилася с душою;
Хоть пути не кончить им вдвоём!

Так поток весенний отражает
Свод небес далекий голубой
И в волне спокойной он сияет
И трепещет с бурною волной.

Будь, о будь моими небесами,
Будь товарищ грозных бурь моих;
Пусть тогда гремят они меж нами,
Я рожден, чтобы не жить без них.

Я рожден, чтоб целый мир был зритель
Торжества иль гибели моей,
Но с тобой, мой луч путеводитель.
Что хвала иль гордый смех людей!

Души их певца не постигали,
Не могли души его любить,
Не могли понять его печали,
Не могли восторгов разделить.


NÀNG HÁT LÊN

Nàng hát lên – và âm thanh tan chảy
Như nụ hôn tan chảy ở trên môi
Nàng nhìn lên – lấp lánh những tầng trời
Trong đôi mắt của nàng thần thánh ấy.

Nàng bước đi – trong cử động của nàng
Hay lời thốt ra – trong từng đường nét
Đầy ắp tình cảm và đầy cảm xúc
Và đầy ắp sự kỳ diệu giản đơn.
1837

Она поет — и звуки тают

Она поет — и звуки тают,
Как поцелуи на устах,
Глядит — и небеса играют
В ее божественных глазах;

Идет ли — все ее движенья,
Иль молвит слово — все черты
Так полны чувства, выраженья,
Так полны дивной простоты.


TA CHIA TAY, NHƯNG MÀ BỨC CHÂN DUNG

Ta chia tay, nhưng mà bức chân dung
Hình của em trong lòng anh vẫn giữ
Như ảo ảnh của năm tháng huy hoàng
Vẫn làm cho cõi lòng anh hoan hỉ.

Giờ thả mình theo đam mê mới mẻ
Vẫn không thể quên được bóng hình em
Bởi ngôi đền hoang vắng – vẫn ngôi đền
Và thần tượng vẫn thiêng – dù đã bỏ.
1837

Расстались мы, но твой портрет

Расстались мы, но твой портрет
Я на груди своей храню:
Как бледный призрак лучших лет,
Он душу радует мою.

И, новым преданный страстям,
Я разлюбить его не мог:
Так храм оставленный - всё храм,
Кумир поверженный - всё бог!


NHÌN VÀO TƯƠNG LAI

Nhìn về quá khứ với một nỗi buồn
Nhìn vào tương lai với niềm sợ hãi
Giống tội phạm trước khi bị hành hình
Tôi đi tìm khắp nơi hồn gần gũi
Liệu sứ giả giải thoát rồi có tới
Mở cho tôi ấn định của cuộc đời
Mục đích của hy vọng và đam mê
Cho biết điều gì Chúa đà định sẵn
Sao Ngài từ chối một cách cay đắng
Những ước mong thời tuổi trẻ của tôi.

Tôi đã trả cho đất đai nợ đời
Của tình yêu, hy vọng, thiện và ác
Và bắt đầu sẵn sàng cho đời khác
Chờ trong im lặng: sẽ đến một thời
Tôi bỏ lại người anh em trên đời
Còn tâm hồn tôi vô cùng mệt mỏi
Vì lạnh lẽo và bóng đêm vây lấy
Và đánh mất sinh lực như trái non
Rồi héo tàn trong số kiếp bão giông
Dưới oi bức của mặt t
rời tồn tại.
1838

Гляжу на будущность с боязнью

Гляжу на будущность с боязнью,
Гляжу на прошлое с тоской
И, как преступник перед казнью,
Ищу кругом души родной;
Придет ли вестник избавленья
Открыть мне жизни назначенье,
Цель упований и страстей,
Поведать — что мне бог готовил,
Зачем так горько прекословил
Надеждам юности моей.

Земле я отдал дань земную
Любви, надежд, добра и зла;
Начать готов я жизнь другую,
Молчу и жду: пора пришла;
Я в мире не оставлю брата,
И тьмой и холодом объята
Душа усталая моя;
Как ранний плод, лишенный сока,
Она увяла в бурях рока
Под знойным солнцем бытия.


NGHE GIỌNG NÓI CỦA EM

Nghe giọng nói của em
Trìu mến và ngân vang
Con tim này nhảy cẫng
Như chim ở trong lồng.

Bắt gặp ánh mắt em
Sâu thẳm – màu thiên thanh
Hồn từ trong lồng ngực
Năn nỉ gặp mắt nhìn.

Và vui vẻ hân hoan
Và như muốn khóc lên
Và giá như mà được
Ôm choàng lấy cổ em.
1938

Слышу ли голос твой

Слышу ли голос твой
Звонкий и ласковый,
Как птичка в клетке,
Сердце запрыгает;
Встречу ль глаза твои
Лазурно-глубокие,
Душа им навстречу
Из груди просится,
И как-то весело,
И хочется плакать,
И так на шею бы
Тебе я кинулся.


GỬI A. O. SMIRNOVA 

Muốn nói với em nhiều - khi chẳng có em
Còn khi có em lại muốn nghe em nói
Nhưng em lặng im, nghiêm khắc ánh mắt nhìn
Làm cho anh cũng lặng im bối rối.

Biết sao giờ? Không biết ăn biết nói
Giành ý nghĩ em bằng cách nào đây..
Tất cả chuyện này quả thật khôi hài
Nếu tất cả đã không buồn đến vậy…
1840

А.О.Смирновой

Без вас хочу сказать вам много,
При вас я слушать вас хочу;
Но молча вы глядите строго,
И я в смущении молчу.

Что ж делать?.. Речью неискусной
Занять ваш ум мне не дано...
Всё это было бы смешно,
Когда бы не было так грустно...



CÔ LÁNG GIỀNG 

Ngày tự do xem chừng không thể đợi
Mà ngày trong tù có vẻ bằng năm
Khung cửa sổ trên đất cao vòi vọi
Bên cửa ra vào có lính đứng canh!

Có lẽ tôi đã chết ở trong lồng
Nếu không có cô láng giềng yêu mến!..
Hôm nay thức giấc trong buổi bình minh
Khẽ gật đầu – với nàng tôi chào đón.

Trong cách trở, cảnh tù đày kết gắn
Tôi với nàng bằng một số phận chung
Và đã nảy sinh một điều mong muốn
Dù song sắt cách trở đến hai lần.

Một buổi sáng tôi ngồi bên cửa sổ
Cho đôi mắt được thỏa sức ngắm nhìn…
Bỗng ô cửa đối diện tôi: tiếng gõ!
Và bất ngờ bức màn được vén lên.

Một cô nàng láu lỉnh nhìn sang tôi
Mái đầu nàng lên bàn tay ngả xuống
Có vẻ như cơn gió từ bờ vai
Thổi nhẹ làm chiếc khăn rằn rơi xuống.

Nhưng tái nhợt bộ ngực xuân tươi trẻ
Nàng ngồi lâu, dường như đang thở dài
Đang giấu vẻ ngang tàng trong ý nghĩ
Khao khát tự do, cũng giống như tôi.

Em chớ buồn, cô gái láng giềng ơi
Cửa sẽ mở - chỉ cần em mong muốn
Và hai chúng ta như cánh chim trời
Sẽ bay ra giữa cánh đồng rộng lớn.

Em hãy mời bọn lính canh đánh chén
Và đánh cắp những chìa khóa cho anh
Còn phần anh, sẽ cố gắng tự mình
Dẹp những đứa canh phòng bên cửa lớn.

Em hãy chọn đêm nào trời tối nhé
Chọn thứ rượu say mang đến cho cha
Và để cho anh có thể nhận ra
Em hãy treo khăn rằn lên song cửa.
1840

Соседка

Не дождаться мне, видно, свободы, 
А тюремные дни будто годы;
И окно высоко над землей!
И у двери стоит часовой!

Умереть бы уж мне в этой клетке, 
Кабы не было милой соседки!.. 
Мы проснулись сегодня с зарей, 
Я кивнул ей слегка головой.

Разлучив, нас сдружила неволя, 
Познакомила общая доля, 
Породнило желанье одно
Да с двойною решеткой окно;

У окна лишь поутру я сяду, 
Волю дам ненасытному взгляду... 
Вот напротив окошечко: стук! 
Занавеска подымется вдруг.

На меня посмотрела плутовка! 
Опустилась на ручку головка, 
А с плеча, будто сдул ветерок, 
Полосатый скатился платок,

Но бледна ее грудь молодая, 
И сидит она, долго вздыхая, 
Видно, буйную думу тая,
Все тоскует по воле, как я.

Не грусти, дорогая соседка... 
Захоти лишь - отворится клетка, 
И, как божии птички, вдвоем 
Мы в широкое поле порхнем.

У отца ты ключи мне украдешь, 
Сторожей за пирушку усадишь, 
А уж с тем, что поставлен к дверям, 
Постараюсь я справиться сам.

Избери только ночь потемнее, 
Да отцу дай вина похмельнее, 
Да повесь, чтобы ведать я мог, 
На окно полосатый платок.


TẠI VÌ SAO 

Tôi buồn, bởi vì yêu em đó 
Và biết rằng tiếng xấu chẳng hề thương 
Tuổi trẻ của em dậy sức thanh xuân. 
Mỗi giây ngọt ngào, mỗi ngày sáng tỏ 
Em phải trả bằng nước mắt, nỗi buồn. 
Tôi buồn… bởi vì em vui vẻ. 
1840

Отчего

Мне грустно, потому что я тебя люблю,
И знаю: молодость цветущую твою
Не пощадит молвы коварное гоненье.
За каждый светлый день иль сладкое мгновенье
Слезами и тоской заплатишь ты судьбе.
Мне грустно... потому что весело тебе.


SAU MẠNG CHE LẠNH LÙNG VÀ BÍ ẨN

Sau mạng che lạnh lùng và bí ẩn
Giọng của em vui như một giấc mơ
Đôi mắt quyến rũ tỏa sáng cho ta
Và mỉm cười – đôi bờ môi láu lỉnh.

Qua làn khói ta vô tình cảm nhận
Cổ màu trắng và đôi má thanh tân
Kẻ hạnh phúc! Nhìn mái tóc tự nhiên
Đã không còn như ngày xưa gợn sóng!

Khi đó ta tạo ra trong tưởng tượng
Người đẹp của ta theo dấu nhẹ nhàng
Và từ đó hình ảnh của hình dung
Mang trong lòng, ta yêu, ta âu yếm.

Những lời sống động này – ta cứ ngỡ
Rằng ngày xưa đâu đó đã từng nghe
Ai đó thì thầm: sau lần gặp kia
Ta lại gặp như những người bạn cũ.
1841

Из-под таинственной, холодной полумаски

Из-под таинственной, холодной полумаски
Звучал мне голос твой отрадный, как мечта.
Светили мне твои пленительные глазки
И улыбалися лукавые уста.

Сквозь дымку легкую заметил я невольно
И девственных ланит, и шеи белизну.
Счастливец! видел я и локон своевольный,
Родных кудрей покинувший волну!..

И создал я тогда в моем воображенье
По легким признакам красавицу мою;
И с той поры бесплотное виденье
Ношу в душе моей, ласкаю и люблю.

И все мне кажется: живые эти речи
В года минувшие слыхал когда-то я;
И кто-то шепчет мне, что после этой встречи
Мы вновь увидимся, как старые друзья.



TÔI KHÔNG YÊU EM NHIỆT THÀNH NHƯ THẾ

Tôi không yêu em nhiệt thành như thế
Sắc đẹp của em chỉ để cho người
Tôi yêu ở em nỗi đau quá khứ
Và tuổi thanh xuân đã chết của tôi.

Dù lúc này tôi vẫn nhìn sang em
Nhìn chăm chú thật lâu vào đôi mắt
Và tôi đang chuyện trò trong bí mật
Câu chuyện tâm tình nhưng chẳng với em.

Mà với người bạn gái của ngày xanh
Trong đường nét của em tìm nét khác
Trong mắt này – tìm mắt huyền đã khép
Trong môi này – bờ môi đã lặng câm.
1841

Нет, не тебя так пылко я люблю

Нет, не тебя так пылко я люблю,
Не для меня красы твоей блистанье:
Люблю в тебе я прошлое страданье
И молодость погибшую мою.

Когда порой я на тебя смотрю,
В твои глаза вникая долгим взором:
Таинственным я занят разговором,
Но не с тобой я сердцем говорю.

Я говорю с подругой юных дней,
В твоих чертах ищу черты другие,
В устах живых уста давно немые,
В глазах огонь угаснувших очей.



TÔI MỘT MÌNH BƯỚC RA CON ĐƯỜNG LỚN

1 
Tôi một mình bước ra con đường lớn 
Qua màn sương con đường đá ánh lên 
Đồng hoang nghe lời Chúa. Đêm tĩnh lặng
Và những ngôi sao to nhỏ tự tình. 

2 
Giữa bầu trời diệu kỳ và trang trọng 
Đất ngủ yên trong ánh sáng màu xanh 
Có điều chi làm cho tôi đau đớn? 
Có điều chi tôi mong đợi cho mình? 

3 
Không còn đợi điều chi từ cuộc sống 
Tháng ngày qua không một chút tiếc thương 
Tôi đi tìm tự do và tĩnh lặng 
Tôi chỉ mong giá được ngủ và quên! 

4 
Nhưng không bằng giấc mơ trong mồ lạnh 
Mà chỉ mong ngủ như vậy muôn đời: 
Để trong ngực mê man nguồn nhựa sống 
Để lặng yên con sóng giữa lòng tôi. 

5 
Để suốt đêm, suốt ngày tôi nghe được 
Về tình yêu một giọng hát ngọt ngào 
Để trên đầu tôi muôn đời xanh mướt 
Cây sồi đen ngả bóng xuống lao xao. 
1841

Выхожу один я на дорогу

Выхожу один я на дорогу;
Сквозь туман кремнистый путь блестит;
Ночь тиха. Пустыня внемлет богу,
И звезда с звездою говорит.

В небесах торжественно и чудно!
Спит земля в сияньи голубом...
Что же мне так больно и так трудно?
Жду ль чего? жалею ли о чём?

Уж не жду от жизни ничего я,
И не жаль мне прошлого ничуть;
Я ищу свободы и покоя!
Я б хотел забыться и заснуть!

Но не тем холодным сном могилы...
Я б желал навеки так заснуть,
Чтоб в груди дремали жизни силы,
Чтоб дыша вздымалась тихо грудь;

Чтоб всю ночь, весь день мой слух лелея,
Про любовь мне сладкий голос пел,
Надо мной чтоб вечно зеленея
Тёмный дуб склонялся и шумел.



TÔI NGÀY XƯA

Tôi này xưa đã từng coi cuộc đời
Hạnh phúc là những nụ hôn say đắm
Nhưng giờ đây hạnh phúc tôi đã chán
Nhưng giờ đây tôi không còn yêu ai.

Và một thuở đã từng coi cuộc đời
Sôi nổi của mình là dòng nước mắt
Nhưng khi đó tôi yêu và khao khát
Còn bây giờ tôi đã chẳng yêu ai!

Và sổ ngày tháng tôi để mất rồi
Và đôi cánh lãng quên tôi tìm bắt
Giá được cho chúng mang tim đi mất!
Giá được đem cho muôn thuở của tôi!


Поцелуями прежде считал

Поцелуями прежде считал
Я счастливую жизнь свою,
Но теперь я от счастья устал,
Но теперь никого не люблю.

И слезами когда-то считал
Я мятежную жизнь мою,
Но тогда я любил и желал —
А теперь никого не люблю!

И я счет своих лет потерял
И я крылья забвенья ловлю:
Как я сердце унесть бы им дал!
Как бы вечность им бросил мою!


MTSYRI*

Đã nếm một chút mật ong, này đây tôi phải chết**. 
Cựu Ước_Sách Samuen 1: 14, 43. 


Cách đây một thời gian chưa lâu lắm
Chỉ mấy năm, nơi tiếng nước rì rầm
Quấn quít lấy nhau như hai chị em
Dòng nước Kura và Aragva đổ xuống
Ở nơi đó có một tòa tu viện
Khách bộ hành nhìn thấy rõ từ xa
Những cây cột của cổng lớn chơ vơ
Và những tháp, và mái vòm tu viện
Nhưng bình hương ở nơi này tắt hẳn
Đã không còn tỏa làn khói mùi thơm
Không còn nghe câu kinh giờ muộn màng
Của tu sĩ vì chúng ta cầu nguyện.
Chỉ còn một ông già tóc bạc trắng
Vẫn đứng canh cảnh đổ nát hoang tàn
Bị loài người và cái chết lãng quên
Và lau bụi thời gian từ bia mộ
Những dòng chữ đã khắc trên mộ chí
Nói về vinh quang một thuở xa xôi
Và tâm trạng chán nản của một người
Một ông vua trong một năm nào đó
Trao dân mình cho nước Nga che chở. 
Và yên bình đến với Gruzia
Kể từ ngày đó đất nước nở hoa
Trong bóng những khu vườn không còn sợ
Hay còn lo vì tai ương địch họa
Dưới rừng gươm thân thiện của bạn bè. 
………………………………………………..
………………………………………...........

26 
Khi mà tôi sắp từ giã cõi trần
Xin hãy tin ngày này không xa nữa
Già hãy sai mang tôi ra khu vườn
Nơi có hai bụi keo hoa trắng xóa
Xung quanh cây đó mọc đầy hoa cỏ
Không khí trong lành, thoang thoảng mùi hương
Từng chiếc lá trong suốt ánh màu vàng
Đang đùa vui dưới mặt trời vui vẻ!
Xin hãy sai đặt tôi nằm nơi đó.
Để tôi được uống say lần cuối cùng
Ánh hào quang tỏa sáng của ngày xanh.
Để từ đó thấy rõ ràng Kavkaz
Có thể là từ đỉnh cao chót vót
Núi gửi tôi lời vĩnh biệt cuối cùng
Lời vĩnh biệt cùng với cơn gió mát
Gần gũi bên tôi trước phút lâm chung
Lại vang lên một âm thanh quen thuộc!
Để tôi nghĩ có người anh thân thiết
Hay người bạn đang cúi xuống trên mình
Bằng bàn tay chăm chú và quan tâm
Lau giọt mồ hôi lạnh từ gương mặt
Và chỉ khe khẽ cất lên tiếng hát
Một bài ca về đất nước quê hương
Để với lời ca tôi sẽ ngủ yên
Và sẽ không trách cứ gì ai hết!..”
_____________
(1) Mtsyri (tiếng Gruzia), The Novice (tiếng Anh) – nghĩa là người mới tu. Trường ca này có 26 phần, chúng tôi chỉ dịch phần đầu tiên và phần cuối cùng. Tiếng Việt đã có bản dịch đầy đủ của Thúy Toàn. Câu đề từ của trường ca này Thúy Toàn đã dịch sai nội dung cũng như nguồn dẫn. Thúy Toàn dịch: “Chửa ăn bao mật ngọt. Mà nay đã chết rồi” và dẫn nguồn là: “Thánh Kinh quyển 1”, thực ra đây là quyển Samuen 1 của Kinh Thánh Cựu Ước. Tuy nhiên cũng không trách Thúy Toàn, phải là người rất hiểu biết về Kinh Thánh thì mới dịch đúng được câu đề từ này và dẫn đúng nguồn được (xem tiếp chú thích 2).    

(2) Đã nếm một chút mật ong, này đây tôi phải chết (Вкушая, вкусих мало меда, и се аз умираю). Câu này Lermontov lấy từ Kinh Thánh bằng tiếng Nga cổ “Вкушая, вкусих мало меду, омочив конец жезла, иже в руце моей, и се аз умираю”, bản tiếng Nga hiện đại là “...я отведал концом палки, которая в руке моей, немного меду; и вот я должен умереть”. Bản tiếng Việt tương đương: “Tôi có dùng đầu gậy tôi cầm nơi tay mà nếm chút mật ong, nay tôi đây phải chết” (Cựu Ước - Sách Samuen 1, chương 14, mục 43).

(3) Kura – là con sông lớn nhất ở vùng Kavkaz chảy qua lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ, Gruzia và Azerbaijan đổ ra biển Caspi. Aragva – là nhánh tả của sông Kura. 



Мцыри
Вкушая, вкусих мало меда, и се аз умираю.
1-я Книга Царств

1
Немного лет тому назад,
Там, где, сливаяся, шумят,
Обнявшись, будто две сестры,
Струи Арагвы и Куры,
Был монастырь. Из-за горы
И нынче видит пешеход
Столбы обрушенных ворот,
И башни, и церковный свод;
Но не курится уж под ним
Кадильниц благовонный дым,
Не слышно пенье в поздний час
Молящих иноков за нас.
Теперь один старик седой,
Развалин страж полуживой,
Людьми и смертию забыт,
Сметает пыль с могильных плит,
Которых надпись говорит
О славе прошлой — и о том,
Как, удручен своим венцом,
Такой-то царь, в такой-то год,
Вручал России свой народ.
И божья благодать сошла
На Грузию! Она цвела
С тех пор в тени своих садов,
Не опасаяся врагов,
За гранью дружеских штыков.
..................
..................
26
Когда я стану умирать,
И, верь, тебе не долго ждать,
Ты перенесть меня вели
В наш сад, в то место, где цвели
Акаций белых два куста...
Трава меж ними так густа,
И свежий воздух так душист,
И так прозрачно-золотист
Играющий на солнце лист!
Там положить вели меня.
Сияньем голубого дня
Упьюся я в последний раз.
Оттуда виден и Кавказ!
Быть может, он с своих высот
Привет прощальный мне пришлет,
Пришлет с прохладным ветерком...
И близ меня перед концом
Родной опять раздастся звук!
И стану думать я, что друг
Иль брат, склонившись надо мной,
Отер внимательной рукой.
С лица кончины хладный пот
И что вполголоса поет
Он мне про милую страну...
И с этой мыслью я засну,
И никого не прокляну!..»


Một số nhà thơ Thế kỷ vàng khác:

Nikolay Nekrasov

Alexander Pushkin

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét