Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

Thơ tình Ivan Bunin


ANH HẠNH PHÚC KHI ĐÔI MẮT MÀU XANH

Anh hạnh phúc khi đôi mắt màu xanh
Mắt màu xanh em ngước nhìn anh đó
Niềm hy vọng trong mắt em rạng rỡ
Bầu trời trong veo của một ngày xanh.

Và đắng cay khi đôi mắt màu xanh
Rủ hàng mi đen và em im bặt
Yêu anh không, tự mình, em chẳng biết
Còn tình yêu e ấp, cố giấu mình.

Nhưng ở khắp nơi và chung thuỷ, thường xuyên
Khi gần em tâm hồn anh toả sáng…
Người yêu ơi hãy mãi là cao thượng
Sắc đẹp tuyệt vời và tuổi trẻ của em!
1896

Счастлив я, когда ты голубые

Счастлив я, когда ты голубые
Очи поднимаешь на меня:
Светят в них надежды молодые –
Небеса безоблачного дня.

Горько мне, когда ты, опуская
Темные ресницы, замолчишь:
Любишь ты, сама того не зная,
И любовь застенчиво таишь.

Но всегда, везде и неизменно
Близ тебя светла душа моя...
Милый друг! О, будь благословенна
Красота и молодость твоя!

CẦM TAY EM

Cầm tay emrất lâu anh ngắm nhìn 

Còn em thẫn thờ, đôi mắt em hờ khép 
Trong bàn tay này – sự tồn tại của em 
Anh cảm nhận ra – cả hồn lẫn xác.

Cần gì thêmCó thể hạnh phúc thêm

Nhưng thiên thần nổi loạn bằng bão lửa 
Bay trên cuộc đờibằng đam mê giết bỏ
Đ
ang vút bay nhanh trước mặt chúng mình.
1898

Беру твою руку и долго смотрю на нее

Беру твою руку и долго смотрю на нее,
Ты в сладкой истоме глаза поднимаешь несмело:
Вот в этой руке - все твое бытие,
Я всю тебя чувствую - душу и тело.

Что надо еще? Возможно ль блаженнее быть?
Но ангел мятежный, весь буря и пламя,
Летящий над миром, чтоб смертною страстью губить,
Уж мчится над нами!


LẠI MỘT GIẤC MƠ NGỌT NGÀOQUYẾN RŨ

Lại một giấc mơ ngọt ngàoquyến rũ 

Tôi mơ vềmê đắm với niềm vui
Á
nh mắt yêu thương thầm kín gọi mời 

Và một nụ cười dịu hiền vẫy gọi.

Vẫn biết rằng lại là dối gian thôi 

Giấc mơ này trong bình minh tỏa sáng 
Nhưng bây giờ ngày buồn chưa kịp đến 
Thì hãy mỉm cườihãy dối lừa tôi.
1898

Снова сон, пленительный и сладкий

Снова сон, пленительный и сладкий,
Снится мне и радостью пьянит, -
Милый взор зовет меня украдкой,
Ласковой улыбкою манит.

Знаю я, - опять меня обманет
Этот сон при первом блеске дня,
Но пока печальный день настанет,
Улыбнись мне - обмани меня!
1898 


NGƯỜI XA LẠ

Em là người xa lạ 

Nhưng yêu chỉ mình anh 
Và em sẽ không quên 
Cho đến ngày cuối tận.

Thế rồi em ngoan ngoãn 

Lặng lẽ theo người ta 
Nhưng mặt em cúi xuống 
Người ấy chẳng nhận ra.

Em trở thành phụ nữ 

Nhưng thiếu nữ với anh 
Trong bước đi của mình 
Sắc đẹp đầy quyến rũ!

Sẽ có điều phụ bạc… 

Nhưng chỉ có một lần 
Khi e ấp cháy lên 
Ngọn lửa tình trong mắt.

Em không biết giấu đi 

Rằng với người – xa lạ 
Và sẽ không bao giờ 
Bao giờ quên anh cả!
1906
______________
*Người xa lạ này chính là người vợ đầu của nhà thơ, Anna TsaknyHọ chia taynhau sau 2 năm chung sống và Anna Tsakny đã thề rằng sẽ không bao giờ yêu ainữa mặc dù Bunin lúc đó đã yêu người khácBài thơ này được viết vào năm1906 và những lời trong bài thơ trở thành những lời tiên tri chính xác bởi vì saunày Anna Tsakny kết hôn với Aleksandr Derybas nhưng cuộc hôn nhân nàykhông hề có tình yêu.

Чужая

Ты чужая, но любишь,
Любишь только меня.
Ты меня не забудешь
До последнего дня.

Ты покорно и скромно
Шла за ним от венца.
Но лицо ты склонила –
Он не видел лица.

Ты с ним женщиной стала,
Но не девушка ль ты?
Сколько в каждом движенье
Простоты, красоты!

Будут снова измены...
Но один только раз
Так застенчиво светит
Нежность любящих глаз.

Ты и скрыть не умеешь,
Что ему ты чужда...
Ты меня не забудешь
Никогда, никогда!


TA ĐI BÊN NHAU

Ta đi bên nhauhai đứa gần kề 
Nhưng nhất định nhìn anhem đã chẳng 
Lời của chúng mình bâng quơ, trống rỗng 
Mất hút vào trong ngọn gió tháng ba.

Đá
m mây trắng lạnh lùng bay xuyên qua 

Khu vườn nhỏgiọt nước rơi tí tách 
Gò má em tái nhợt trong giá buốt 
Và đôi mắt xanh thắmtựa như hoa.

Còn bờ môi khao khát chỉ khép hờ 

Anh đã tránh chạm lên bằng ánh mắt 
Vẻ trống trải tưởng chừng bao hạnh phúc 
Cõi diệu huyềnnơi hai đứa từng qua.
1917

Мы рядом шли, но на меня

Мы рядом шли, но на меня
Уже взглянуть ты не решалась,
И в ветре мартовского дня
Пустая наша речь терялась.

Белели стужей облака
Сквозь сад, где падали капели,
Бледна была твоя щека,
И как цветы глаза синели.

Уже полураскрытых уст
Я избегал касаться взглядом.
Но был еще блаженно пуст
Тот дивный мир, где шли мы рядом.
1917



ÁNH NHÌN TĨNH LẶNG NHƯ MẮT NAI CON

Ánh nhìn tĩnh lặng như mắt nai con
Những gì bên trongtôi từng yêu đến thế
Đến giờ vẫn chưa quên trong đau khổ
Nhưng bóng dáng người giờ đã trong sương.

Đến một ngày – sẽ tan biến nỗi buồn
Giấc mơ hoài niệm rồi đây sáng tỏ
Không còn hạnh phúckhông còn đau khổ
Chỉ còn điều tha thứ  xa xăm.
1901

Спокойный взор, подобный взору лани

Спокойный взор, подобный взору лани,
И все, что в нем так нежно я любил,
Я до сих пор в печали не забыл.
Но образ твой теперь уже в тумане.

А будут дни — угаснет и печаль,
И засияет сон воспоминанья,
Где нет уже ни счастья, ни страданья,
А только всепрощающая даль.
1901
  

CHÚNG TÔI GẶP RẤT VÔ TÌNH

Chúng tôi gặp rất vô tìnhtrong góc
Tôi đi nhanh – bỗng như ánh chớp nguồn
Cắt qua màn sương nhẹ buổi chiều hôm
Và xuyên qua bờ mi đen sáng rực.

Chiếc áo nhiễu – vẻ nhẹ nhàngtrong suốt
Trong phút giây thổi nhẹ gió mùa xuân
Nhưng trên mặttrong đôi mắt sáng rực
Tôi nắm bắt vẻ sống động đã từng.

Nàng gật đầu với tôi đầy âu yếm
Mặt cúi nghiêng trong gió, thật nhẹ nhàng
Rồi biến vào góc… Lúc đó mùa xuân
Nàng tha thứ cho tôi – và quên lãng.
1905

Мы встретились случайно, на углу

Мы встретились случайно, на углу.
Я быстро шел — и вдруг как свет зарницы
Вечернюю прорезал полумглу
Сквозь черные лучистые ресницы.

На ней был креп,- прозрачный легкий газ
Весенний ветер взвеял на мгновенье,
Но на лице и в ярком свете глаз
Я уловил былое оживленье.

И ласково кивнула мне она,
Слегка лицо от ветра наклонила
И скрылась за углом… Была весна…
Она меня простила — и забыла.



MAHÔMÉT VÀ SAPHIA*

Saphia thức dậy lấy bàn tay của mình
Nàng khéo léo bện những mớ tóc đen:
“Mọi người chửi em là người Do Thái” –
Nàng nói trong nước mắt với chồng mình.

Mahômét cười, âu yếm nhìn vợ ông
Rồi trả lời: “Em hãy nói với họ
Abraham là bố, Môsê là chú
Còn Mahômét là chồng em”.
1914
_________________
*Saphia – tức Safiyya bint Huyayy (610 – 670) là vợ của nhà tiên tri Mahômét, người sáng lập Hồi giáo.

Магомет и Сафия

Сафия, проснувшись, заплетает ловкой
Голубой рукою пряди чёрных кос:
«Все меня ругают, Магомет, жидовкой», —
Говорит сквозь слёзы, не стирая слёз.

Магомет, с усмешкой и любовью глядя,
Отвечает кротко: «Ты скажи им, друг:
Авраам  — отец мой, Моисей  — мой дядя,
Магомет  — супруг».
1914
  

LĂNG MỘ SAPHIA*

Mạch nước nguồn trên những dãy sườn non
Vẫn mơ màng theo bờ khe chảy xuống
Như tu sĩ, trên quan tài màu trắng
Giữa trời xanh cây bách đứng lặng ngừng.

Như cô gáihoa mimosa dịu dàng
Đang thả xuống những bóng cành bóng lá
Những bông hồng đ mùi hương lan tỏa
Trong bụi cây họa mi khóc nỉ non.

Phía dưới là bờ hoang dã trong sương
Đường chân trời xa vời trong tầm mắt
Bầu không khí bao la và bát ngát
Eo biển Hellespont** xanh một màu xanh.

Bình yên cho em, tươi trẻ, khiêm nhường!
Tôi hôn lên lăng mộ em màu trắng
Năm thế kỷ bất tử, không quên lãng
Cả Phương Đông vẫn tưởng nhớ về em.

Hạnh phúc cho người quyến rũ trần gian
Nhưng trăm lần hạnh phúc hơn thế nữa
Tro tàn đặt lòng tin vào bất tử
Và trở nên huyền thoại suốt vĩnh hằng!
1903
__________________
*Như đã chú thích ở bài Mahômét và Saphia thì Saphia là vợ của Mahômét và tình yêu này cũng có thể coi là huyền thoại. Trong trận Khaybar, cha và chồng của Saphia bị giết còn Saphia cũng như các thành viên khác trong bộ lạc của cô bị bắt làm tù binh. Nhìn thấy Saphia vô cùng xinh đẹp bị giam giữ, nhà tiên tri Mahômét đã đưa cô đến ở cùng các bà vợ của mình và giải thoát cô khỏi chế độ nô lệ. Sau khi giải thoát, cô được lựa chọn để bảo lưu tôn giáo của mình và ra đi nơi nào cô muốn, hoặc là ở lại với Mahômét. Saphia quyết định ở lại và sống với ông. Thời điểm kết hôn với Mahômét, Saphia tròn 17 tuổi.
**Hellespont (tên gọi ngày nay là Dardanellia) – là một eo biển hẹp ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ kết nối biển Aegea với biển Marmara.


Гробница Сафии

Горный ключ по скатам и оврагам,
Полусонный, убегает вниз.
Как чернец, над белым саркофагом
В синем небе замер кипарис.

Нежные, как девушки, мимозы
Льют над ним узор своих ветвей,
И цветут, благоухают розы
На кустах, где плачет соловей.

Ниже - дикий берег и туманный,
Еле уловимый горизонт:
Там простор воздушный и безгранный,
Голубая бездна - Геллеспонт.

Мир тебе, о юная! Смиренно
Я целую белое тюрбэ:
Пять веков бессмертна и нетленна
На Востоке память о тебе.

Счастлив тот, кто жизнью мир пленяет.
Но стократ счастливей тот, чей прах
Веру в жизнь бессмертную вселяет
И цветёт легендами в веках!
1903


ĐÊM MẦU NHIỆM*

Thiên thần đêm này từ trời xuống
(Kinh Koran)

Đêm mầu nhiệm. Những đỉnh cao kết vào nhau hạ xuống
Những chiếc khăn đóng hướng lên cao tận trời xanh.
Ông Muezzin hát lên. Những tảng băng vẫn ửng hồng
Nhưng cơn lạnh của bóng đêm đang thở ra từ thung lũng.

Đêm mầu nhiệm. Từ trên những sườn núi tối tăm
Mây vẫn còn buông và dường như đang vây lấy.
Ông Muezzin** hát lên. Trước ngôi trời Vĩ đại
Đã tỏa khói và đang chảy. Dòng sông Kim Cương.

Thiên thần Gabriel – không nghe thấy và vô hình
Qua thế giới ngủ yên. Cầu Chúa ban phước thiện
Con đường vô hình của người hành hương thần thánh
Xin cho mặt đất của người tình yêu với hòa bình.
1903
_____________________
*Đêm mầu nhiệm hoặc đêm tiền định – tức Laylat al-Qadr (tiếng Anh), là đêm 26 sang ngày 27 của tháng Ramadan mà theo truyền thuyết thì trong cái đêm linh thiêng này thiên thần Gabriel đã mang Koran từ trời xuống trần gian cho Ma-hô-mét.
**Ông Muezzin – giáo sĩ Hồi giáo, người từ tháp canh gọi tín đồ cầu nguyện.

Ночь Аль-Кадра

В эту ночь ангелы сходят с неба
(Коран)

Ночь Аль-Кадра. Сошлись, слились вершины,
И выше к небесам воздвиглись их чалмы.
Пел муэззин. Еще алеют льдины,
Но из теснин, с долин уж дышит холод тьмы.

Ночь Аль-Кадра. По темным горным склонам
Еще спускаются, слоятся облака.
Пел муэззин. Перед Великим Троном
Уже течет, дымись. Алмазная Река.

И Гавриил - неслышно и незримо –
Обходит спящий мир. Господь, благослови
Незримый путь святого пилигрима
И дай земле твоей ночь мира и любви!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét