Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Thơ tình Czeslaw Milosz

Czeslaw Milosz


HÃY QUÊN

Anh hãy quên bao đau khổ
Mà anh gây ra cho mình
Và hãy quên bao đau khổ
Người khác gây ra cho anh.
Dòng nước trôi nhanh, trôi nhanh
Mùa xuân ánh lên rồi lụi
Trên đất rồi sẽ lãng quên.

Anh nghe bài hát xa xăm
Và hỏi ai người hát vậy?
Mặt trời tuổi thơ thức dậy
Cháu chắt, chút chít cứ sinh
Bây giờ nắm tay anh đấy.

Tên những dòng sông còn lại
Làm sao dòng sông dài mãi
Đồng ruộng của anh bỏ hoang
Tháp lầu thảy đều hư không
Anh đứng trên ghềnh tê tái.


Zapomnij 

Zapomnij o cierpieniach,
Które sam zadałeś.
Zapomnij o cierpieniach,
Które tobie zadano.
Wody płyną i płyną,
Wiosny błysną i giną,
Idziesz ziemią ledwie pamiętaną.
Czasem słyszysz daleko piosenkę.
Co to znaczy, pytasz, kto tam śpiewa?
Dziecinne słońce wschodzi,
Wnuk i prawnuk się rodzi.
Teraz ciebie prowadzą za rękę.
Nazwy rzek tobie jeszcze zostały.
Jakże długo umieją trwać rzeki!
Pola twoje, ugorne,
Wieże miast, niepodobne.
Ty na progu stoisz, zaniemiały.



Trò chuyện cùng Jeanne

Ta triết lý với nhau, có để làm gì đâu hở Jeanne(1) 
Tốn bao nhiêu lời, tốn bao nhiêu giấy mực 
Anh nói thật cùng em về sự xa cách của mình 
Rằng anh không đến nỗi đắng cay vì cuộc đời này khó nhọc 
Với đau đớn đời thường không tốt hơn mà cũng chẳng xấu hơn. 

Cuộc tranh luận của ta kéo dài không dưới ba mươi năm 
Còn bây giờ, trên đảo này, dưới bầu trời nhiệt đới 
Ta chạy trốn cơn giông, phút giây dưới mặt trời sáng chói 
Còn lại đây ngọc bích của màu xanh. 

Ta đắm chìm vào bọt biển, bơi về chốn xa xăm 
Nơi mặt trời móc vào những tàu lá chuối 
Với những lá cọ trên cối xay gió vẫn còn vẫy vẫy 
Và người ta đã buộc tội anh 
Vì không đạt đến đỉnh cao trong nghề nghiệp của mình 
Rằng không đòi hỏi cho mình như Jaspers(2) đã chỉ 
Rằng đã coi thường những yêu cầu thế kỉ. 

Đung đưa trên ngọn sóng, anh ngắm nhìn những đám mây. 

Jeanne ạ, quả thế, anh không biết quan tâm đến sự cứu rỗi của linh hồn
Một người này có năng khiếu thì người kia cũng làm được những gì có thể 
Anh xứng đáng với những gì đã xảy ra và anh đồng ý.
Anh không chơi cái trò biết điều theo lối cổ xưa
Là đặc tính của cuộc đời này, sự tồn tại của ta:
Trên bãi tắm phụ nữ cởi trần với sắc đồng trên ngực

Hoa hồng vàng, hoa huệ đỏ, hoa phong lan… và xực
Bằng đôi mắt, bờ môi, lưỡi và nước ép La prune de Cynthere 
Rượu rum và nước đá, nước quả ép và nước xi-rô 
Những hàng cây gốc khẳng khiu trong rừng ẩm ướt 
Và em vẫn nói rằng ta đã gần cái chết 
Rằng ta khổ vì hạnh phúc quá ít chốn trần gian. 

Những luống đất của vườn rau có màu tím đen 
Em có còn ở lại đây nhìn đất, hay là chẳng 
Biển sẽ vẫn như hôm nay, thở từ trong sâu thẳm 
Biển co vào, mất hút trong bao la mà vẫn tự do hơn. 
Guadeloupe 
_________________ 
(1)Jeanne Hersch – một người bạn lâu năm của Czeslaw Milosz – giáo sư triết học Đại học Geneva (Thụy Sĩ), học trò của Karl Jaspers.
(2) Karl Jaspers (1883-1969) – nhà triết học Đức, một đại diện của chủ nghĩa hiện sinh.

Conversation With Jeanne

Let us not talk philosophy, drop it, Jeanne. 
So many words, so much paper, who can stand it. 
I told you the truth about my distancing myself. 
I've stopped worrying about my misshapen life. 
It was no better and no worse than the usual human tragedies. 

For over thirty years we have been waging our dispute 
As we do now, on the island under the skies of the tropics. 
We flee a downpour, in an instant the bright sun again, 
And I grow dumb, dazzled by the emerald essence of the leaves. 

We submerge in foam at the line of the surf, 
We swim far, to where the horizon is a tangle of banana bush, 
With little windmills of palms. 
And I am under accusation: That I am not up to my oeuvre, 
That I do not demand enough from myself, 
As I could have learned from Karl Jaspers, 
That my scorn for the opinions of this age grows slack. 

I roll on a wave and look at white clouds. 

You are right, Jeanne, I don't know how to care about the salvation of my soul. 
Some are called, others manage as well as they can. 
I accept it, what has befallen me is just. 
I don't pretend to the dignity of a wise old age. 
Untranslatable into words, I chose my home in what is now, 
In things of this world, which exist and, for that reason, delight us: 
Nakedness of women on the beach, coppery cones of their breasts, 
Hibiscus, alamanda, a red lily, devouring 
With my eyes, lips, tongue, the guava juice, the juice of la prune de Cythère,
Rum with ice and syrup, lianas-orchids 
In a rain forest, where trees stand on the stilts of their roots. 

Death, you say, mine and yours, closer and closer, 
We suffered and this poor earth was not enough. 
The purple-black earth of vegetable gardens 
Will be here, either looked at or not. 
The sea, as today, will breathe from its depths. 
Growing small, I disappear in the immense, more and more free. 


Bài thơ cuối thế kỷ

Một khi đều tốt đẹp
Thì biến mất khái niệm lỗi lầm
Và mặt đất đã sẵn sàng
Tiêu dùng và vui vẻ
Khắp mọi nơi, mọi chỗ
Không mơ tưởng, chẳng lòng tin.

Tôi, không hiểu tại vì sao
Đi lục tìm trong sách
Của những tiên tri, những nhà thần học
Những thi sĩ, những triết gia
Đi kiếm câu trả lời
Nhăn mặt, chau mày, thức trong đêm vắng
Rồi kêu lên mỗi buổi sáng.

Những gì hành hạ tôi
Thật vô cùng xấu hổ
Thiếu sáng suốt và tế nhị
Là thuộc tính của chuyện này
Chút nữa thì tôi xâm hại
Đến sức khoẻ của loài người.

Chỉ tiếc rằng, kí ức của tôi
Không để cho tôi yên lặng
Và trong đó có những điều sống động
Với nỗi đau của mình
Với cái chết của mình
Và với sự ngạc nhiên tư hữu.

Lấy đâu ra sự trinh trắng, hồn nhiên
ở chốn thiên đàng trên mặt đất
Để trao cho bầu trời trong sạch
Bằng sự rửa tội của nhà thờ?
Có phải chính vì thế mà
Điều này tồn tại đã từ lâu lắm?

Nói cho bậc hiền tri ngoan đạo
Câu ngụ ngôn Arập thế này
Thượng Đế từng nói trong cơn giận:
“Giá mà con người khi hối hận
Nói rằng con là kẻ lỗi lầm
Thì ta đã chẳng hề khen.

Còn ta khi mở cửa cho con
Cho kẻ nhân từ xứng đáng
- Ngài trả lời cao thượng -
Thì ta đã coi thường”.

Tôi biết hỏi ai
Về những việc làm đen tối
Những nỗi đau cùng lầm lỗi
Trong kiến trúc cuộc đời này
Nếu như không ở dưới đây
Không ở trên cao đó
Không một sức mạnh nào có thể
Mở ra nguyên nhân và hậu quả cho tôi?

Không suy nghĩ, không nhớ về
Cái chết trên cây thập ác
Dù hàng ngày đang chết
Một người duy nhất đáng yêu
Người mà lúc nào
Cũng đồng ý và cho phép
Rằng sự tồn tại trên mặt đất
Luôn cùng với đau đớn, cực hình.

Quả là enigmatical
Những điều không hiểu nổi.
Tốt nhất là lời khép lại.
Ngôn ngữ này không phải cho người
Ta chỉ có một niềm vui
Là mùa thu hoạch nho và lúa
Dù không phải cho tất cả
Sự yên lòng được trời trao.

Berkeley.

Wiersz na koniec stulecia

Kiedy już było dobrze
I znikło pojęcie grzechu
I ziemia była gotowa
W powszechnym pokoju
Spoczywać i weselić się
Bez wiar i utopii,

Ja, nie wiadomo czemu,
Obłożony księgami
Proroków i teologów,
Filozofów, poetów,
Szukałem odpowiedzi
Marszcząc się, wykrzywiając, budząc się w środku nocy
Wykrzykując nad ranem.

Co mnie tak pognębiało,
Było zawstydzające.
Brak taktu i rozwagi
Byłby w mówieniu o tym,
A nawet jakby zamach
Na zdrowie ludzkości.

Niestety moja pamięć
Nie chciała mnie opuścić,
A w niej żywe istoty
Każda z jej wżasnym bólem,
Każda z jej wżasną śmiercią,
Z jej własnym przerażeniem.

I skąd by tam niewinność
Na plażach ziemskiego raju,
Niepokalane niebo
Nad kościołem higieny?
Czy dlatego, że Tamto
Było już bardzo dawno?

Do mędrca świątobliwego
Glosi arabska przypowieść
Bóg rzekł nieco złośliwie:
"Gdybym ludziom wyjawił,
Jakim jesteś grzesznikiem,
Nie chwaliliby ciebie."

"A ja, gdybym im odkrył,
Jak jesteś miłosierny
Odparł mąż świątobliwy
Pogardzałiby Tobą."

Do kogo mam się zwrócić
z tą całkiem ciemną sprawą
Bólu i razem winy
W architekturze Świata,
Jeżeli tutaj nisko
Ni tam w górze wysoko
żadna moc nie obali
Przyczyny i skutku?

Nie myśleć, nie wspominać
O Śmierci na krzyżu,
chociaż co dzień umiera
Jedyny miłujący,
Który bez Ŕadnej potrzeby
Zgodził się i zezwolił,
żeby co jest, istniało
Razem z narzędziem tortur.

Całkiem enigmatycznie.
Niepojęcie zawiłe.
Lepiej mowy zaprzestać.
Ten język nie dla ludzi.
Błogosławiona radość.
Winobranie i żniwo.
Choćby nie na każdego

Przyszlo uspokojenie.


NHỮNG TIA NẮNG SÁNG NGỜI

Những tia nắng sáng ngời
Giọt sương trời tinh khiết
Hãy giúp người khao khát
Hiểu ý nghĩa cuộc đời. 

Sau bức màn ngăn cách
Ai hiểu được đời đâu
Khi còn sống, vò đầu
Hạnh phúc – không hạnh phúc. 

Nhưng đến ngày biết hết
Ly biệt sẽ phai màu
Nơi ấy sẽ gặp nhau

Linh hồn và thể xác.

Jasności promieniste

Jasności promieniste,
Niebiańskie rosy czyste,
Pomagajcie każdemu
Ziemi doznającemu.

Za niedosiężną zasłoną
Sens ziemskich spraw umieszczono.
Gonimy dopóki żywi,
Szczęśliwi i nieszczęśliwi.

To wiemy, że bieg się skończy
I rozłączone się złączy
W jedno, tak jak być miało:

Dusza i biedne ciało.


Ý NGHĨA

- Khi chết đi, ta sẽ nhìn thấy bên kia thế giới.
Phía khác, sau hoàng hôn, chim chóc, đồi núi 
Sẽ đọc ra ý nghĩa thực sự mà ta quan tâm. 
Những gì chưa từng gặp gỡ rồi sẽ đoàn viên
Điều không thể hiểu sẽ rõ ràng và thấu hiểu. 

- Còn nếu như không có bên kia thế giới?
Nếu con chim đậu trên cành không là dấu hiệu
Mà chỉ là con chim trên cành, nếu ngày và đêm
Chỉ nối đuôi nhau mà ý nghĩa chẳng quan tâm
Và không có gì trên trần ngoài đất đai như vậy?

Mà nếu thế, thì dù sao, vẫn còn lời ở lại
Lời một lần thức dậy từ đôi môi của người trần
Chạy và chạy, làm kẻ đưa tin không mệt mỏi
Giữa các vì sao, giữa vũ trụ xoay vần
Lời kêu gọi, lời thét lên và lời phản đối.

Sens

- Kiedy umrę, zobaczе podszewkе swiata.
Drugą stronę, za ptakiem, gorą i zachodem słonca.
Wzywajace odczytania prawdziwe znaczenie.
Co nie zgadzalo sie, będzie sie zgadzało.
Co było niepojęte, będzie pojęte.

- A jeżeli nie ma podszewki świata?
Jeżeli drozd na gałęzi nie jest wcale znakiem
Tylko drozdem na gałęzi, jeżeli dzień i noc
Następują po sobie nie dbając o sens
I nie ma nic na ziemi, prócz tej ziemi?

Gdyby tak było, to jednak zostanie
Słowo raz obudzone przez nietrwałe usta,
Które biegnie i biegnie, poseł niestrudzony,
Na międzygwiezdne pola, w kołowrót galaktyk

I protestuje, woła, krzyczy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét